Sơ đồ bài viết
Trong hệ thống pháp luật của một quốc gia, quy định về hiệu lực của văn bản pháp luật là một phần quan trọng nhằm đảm bảo tính công bằng, minh bạch và ổn định trong việc thực thi luật pháp. Hiệu lực của một văn bản pháp luật xác định thời điểm mà nó có thể được áp dụng và giải quyết các vấn đề pháp lý tương ứng. Quy định này thường gồm các điều khoản liên quan đến thời gian bắt đầu có hiệu lực, thời hạn tồn tại và điều kiện để hủy bỏ hoặc sửa đổi văn bản. Cùng tìm hiểu với Phapche.edu.vn trong bài viết sau nhé!
Quy định về hiệu lực của văn bản pháp luật
Thời điểm có hiệu lực của VBQPPL
Theo quy định của Điều 151 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, được sửa đổi bởi khoản 48 của Điều 1 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi năm 2020, thì thời điểm có hiệu lực của VBQPPL được quy định như sau:
Thời điểm có hiệu lực của toàn bộ hoặc một phần văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại văn bản đó không được sớm hơn:
- 45 ngày kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành đối với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở trung ương.
- 10 ngày kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành đối với văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- 07 ngày kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành đối với văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã.
Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn sẽ có hiệu lực kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành, đồng thời phải được đăng ngay trên cổng thông tin điện tử của cơ quan ban hành và phải được đưa tin trên phương tiện thông tin đại chúng. Đối với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở trung ương, thời điểm có hiệu lực chậm nhất là 03 ngày kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành, và đối với văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thời điểm có hiệu lực chậm nhất là 03 ngày kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành.
Tóm lại, thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật sẽ phụ thuộc vào loại văn bản và quy trình ban hành cụ thể, như được quy định chi tiết như trên.
Thời điểm văn bản pháp luật hết hiệu lực
Dựa trên quy định tại Điều 154 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, các trường hợp dẫn đến việc quy phạm pháp luật hết hiệu lực được quy định như sau:
- Hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản.
- Được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng văn bản quy phạm pháp luật mới của cùng cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó.
- Bị bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực, thì văn bản quy định chi tiết thi hành cũng đồng thời hết hiệu lực.
Từ đó, có thể kết luận rằng một văn bản quy phạm pháp luật sẽ không còn có hiệu lực khi:
- Hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản.
- Được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng văn bản quy phạm pháp luật mới của cùng cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó.
- Bị bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực, thì văn bản quy định chi tiết thi hành cũng đồng thời hết hiệu lực.
Một VB quy phạm pháp luật có thể có hiệu lực về trước không?
Theo Điều 152 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, văn bản quy phạm pháp luật có thể có hiệu lực trở về trước dưới các điều kiện sau đây:
Chỉ trong trường hợp thật cần thiết để bảo đảm lợi ích chung của xã hội, thực hiện các quyền, lợi ích của tổ chức, cá nhân được quy định trong luật, nghị quyết của Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan trung ương mới được quy định hiệu lực trở về trước.
Không được quy định hiệu lực trở về trước đối với các trường hợp sau đây:
a) Quy định trách nhiệm pháp lý mới đối với hành vi mà vào thời điểm thực hiện hành vi đó pháp luật không quy định trách nhiệm pháp lý;
b) Quy định trách nhiệm pháp lý nặng hơn.
VBQPPL Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt không được quy định hiệu lực trở về trước.
Do đó, đối với quyết định, chỉ có quyết định của Chủ tịch nước, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ nếu thuộc các trường hợp nêu trên mới được có hiệu lực trở về trước. Trong trường hợp các quyết định là nội bộ của các tổ chức, không có quy định cụ thể. Tuy nhiên, nếu việc quy định hiệu lực trở về trước ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người có liên quan, người ban hành quyết định này phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại đó.
>>> Xem thêm: Khóa học pháp chế doanh nghiệp
Mời bạn xem thêm:
- Quy định của pháp luật về hợp đồng gửi giữ tài sản như thế nào?
- Trong văn bản quy phạm pháp luật dưới điều, khoản, điểm là gì?
- Quy tắc viện dẫn quy định pháp luật trong văn bản hành chính
Câu hỏi thường gặp:
Một VBQPPL đã có hiệu lực có thể bị ngưng hiệu lực tạm thời theo một trong hai căn cứ quy định tại điểm a và điểm b, Khoản 1, Điều 153. Dễ thấy, VBQPPL bị ngưng hiệu lực không nhất thiết phải là văn bản có khiếm khuyết về nội dung hay hình thức. Quy định tại điểm b cho phép chủ thể đã ban hành VBQPPL quyết định việc ngưng hiệu lực của văn bản đó (bằng một văn bản khác được ban hành theo thủ tục rút gọn như đã để cập ở trên) khi những điều kiện khách quan về kinh tế, xã hội thay đổi làm phát sinh những vấn đề mới chưa được trù liệu đầy đủ tại thời điểm xây dựng văn bản
Theo Điều 154 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 (sửa đổi 2020), thời điểm văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp sau đây:
Hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản.
Được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng văn bản quy phạm pháp luật mới của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó.
Bị bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thì văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi hành văn bản đó cũng đồng thời hết hiệu lực.
Quốc hội có thẩm quyền ban hành những loại văn bản quy phạm pháp luật sau đây:
Hiến pháp.
Bộ luật.
Luật.
Nghị quyết.