fbpx
Học viện đào tạo pháp chế ICA

Nhà nước được biết đến là một tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội, nhà nước sẽ bao gồm một lớp người được tách ra từ xã hội, tiến hành thực thi quyền lực với mục đích nhằm tổ chức và quản lý xã hội, phục vụ lợi ích chung của xã hội và cũng để bảo vệ lợi ích của lực lượng cầm quyền. Bạn đọc hãy cùng Học viện đào tạo pháp chế ICA tìm hiểu về Phân tích nguồn gốc, bản chất, chức năng của Nhà nước tại nội dung bài viết dưới đây, hi vọng những thông tin mà chúng tôi chia sẻ sẽ mang lại những thông tin hữu ích.

Nguồn gốc của nhà nước là gì?

Trong lịch sử nhân loại, sự hình thành nhà nước ở nhiều khu vực khác nhau trên thế giới là một quá trình rất lâu dài, đa dạng, phức tạp và do nhiều yếu tố tác động. Theo quan điểm của học thuyết Mác – Lênin về nguồn gốc nhà nước, F. Ăng ghen trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước ” và Lê-nin trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” đã chỉ ra rằng lịch sử nhân loại đã từng trải qua chế độ cộng sản nguyên thủy, một hình thái kinh tế – xã hội đầu tiên của loài người không có giai cấp và nhà nước. Đây là xã hội được cấu thành từ các tổ chức thị tộc, là kết quả của quá trình cộng cư ổn định của những người có chung huyết thống.

Cơ sở kinh tế của thị tộc là sản xuất tập thể và sở hữu chung đối với tài sản của thị tộc. Do việc phân phối bình quân và năng suất lao động thấp nên trong xã hội cộng sản nguyên thủy không có sản phẩm dư thừa và cũng đồng thời triệt tiêu khả năng chiếm đoạt sản phẩm dư thừa làm của riêng. Theo F. Ăng-ghen, thực chất trong thị tộc đã có sự phân công lao động nhưng đó là sự phân công mang tính chất tự nhiên giữa các thành viên khác nhau của thị tộc để thực hiện những công việc thích hợp, đó không phải là sự phân công lao động xã hội do địa vị khác nhau trong sản xuất và đời sống.

Trong thị tộc cũng tồn tại một hệ thống quản lý thực hiện quyền lực bao gồm:

Hội đồng thị tộc: Đây là tổ chức quyền lực cao nhất của thị tộc, bao gồm những thành viên đã trưởng thành, có quyền bàn bạc dân chủ và đưa ra những quyết định tập thể về tất cả những vấn đề quan trọng có liên quan đến thị tộc, về việc tiến hành các biện pháp cưỡng chế đối với thành viên không thực hiện theo đúng quyết định của thị tộc.

Đứng đầu thị tộc là tù trưởng và thủ lĩnh quân sự do Hội nghị toàn thể thị tộc bầu ra trong số những người nhiều tuổi, nhiều kinh nghiệm và có uy tín nhất trong cộng đồng. Về nguyên tắc, tù trưởng và thủ lĩnh quân sự không có một đặc quyền riêng nào.

Ngoài ra, trong xã hội nguyên thủy đã có những cách tổ chức quyền lực cao hơn thị tộc như bào tộc, bộ lạc, liên minh bộ lạc, nhưng do bản chất có chung cơ sở kinh tế, nên những tổ chức này cũng giống thị tộc. Như vậy, quyền lực trong xã hội thị tộc là quyền lực xã hội, không tách rời xã hội.

Do lực lượng sản xuất phát triển, khả năng lao động của con người phát triển nhanh chóng, năng xuất lao động không ngừng tăng lên dẫn đến ba lần phân công lao động: 1) Chăn nuôi tách khỏi trồng trọt; 2) Thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp; 3) Buôn bán phát triển và thương nghiệp xuất hiện.

Thực tế lịch sử ra đời nhà nước sơ khai rất đa dạng, do rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Ngoài hai nguyên nhân kinh tế và nguyên nhân xã hội, sự xuất hiện nhà nước sơ khai (hay còn gọi là nhà nước tiền công nghiệp) còn có nhiều nhân tố khác, với mức độ ảnh hưởng nhiều ít, trực tiếp hoặc gián tiếp rất khác nhau, trong đó có:

– Yếu tố bên trong, như vị trí địa lý, thổ nhưỡng, khí hậu, nguồn cung cấp thức ăn, giao thông… Chính những yếu tố này là cơ sở để thu hút sự tập trung dân cư, khiến cho có nơi này nhà nước ra đời sớm hơn nơi khác, trở thành trung tâm kinh tế – chính trị – văn hóa sớm hơn các vùng khác;

– Yếu tố bên ngoài, như nhu cầu hợp nhất các cộng đồng dân cư tạo sự thuận lợi cho phát triển kinh tế, giao lưu buôn bán (Inter-Polity Trade); nhu cầu tự vệ trước khả năng chiến tranh (War); sự ra đời hay phát triển của các nhà nước láng giềng (Tributary or Client State Formation); sự cạnh tranh về sinh thái và chủng tộc (ethnic and ecological competition); sự phát triển về vũ khí quân sự của các nhà nước láng giềng (military technology)…;

– Các yếu tố văn hóa – kinh tế – khoa học, kĩ thuật, như sự ra đời của chữ viết, sự ra đời của các thành thị, sự tiến bộ về kĩ thuật, sự ra đời của tôn giáo, sự tập trung hóa về chính trị, sự thống nhất về tư tưởng, ý thức hệ.

Bản chất của Nhà nước là gì?

Nhà nước là nền chuyên chính của giai cấp này đối với giai cấp khác và đối với toàn xã hội. Đó là nền chuyên chính của giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế trong xã hội. Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của giai cấp này để trấn áp một giai cấp khác” . Nhà nước chính là một bộ máy do giai cấp thống trị về kinh tế thiết lập ra nhằm hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức của chúng đối với quần chúng lao động. Giai cấp thống trị sử dụng bộ máy nhà nước để đàn áp, cưỡng bức giai cấp khác trong khuôn khổ lợi ích của giai cấp thống trị. Đó là bản chất của nhà nước theo nguyên nghĩa, tức nhà nước của giai cấp bóc lột.  Không có nhà nước, một tổ chức bạo lực chuyên dùng để trấn áp, thì giai cấp thống trị không thể duy trì ách áp bức bóc lột của nó đối với giai cấp bị thống trị. 

Với tính cách là nền chuyên chính của một giai cấp đối với giai cấp khác, nhà nước của giai cấp bóc lột không thể là kẻ công bằng để bảo vệ lợi ích chung cho các giai cấp trong xã hội. 

Mỗi kiểu nhà nước có bản chất riêng nhưng đều mang một số đặc điểm chung. Nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng có những nét chung đó nhưng với bản chất là chuyên chính vô sản, nó không còn là nhà nước theo đúng nghĩa mà chỉ là “nửa nhà nước”. Nhà nước xã hội chủ nghĩa tồn tại trên cơ sở nguyên tắc công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu và lao động tự nguyện. Đó là sản phẩm của nhân dân lao động nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử là xây dựng một xã hội không còn áp bức bóc lột, không còn giai cấp.

Bản chất của nhà nước được thể hiện trong các đặc trưng và chức năng của nó. 

Chức năng của Nhà nước là gì?

Chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội:

Chức năng thống trị chính trị của giai cấp nói lên rằng bất cứ nhà nước nào cũng là công cụ chuyên chính của một giai cấp, nó sẵn sàng sử dụng mọi công cụ, mọi biện pháp có thể có để bảo vệ sự thống trị của giai cấp đó. 

Phân tích nguồn gốc, bản chất, chức năng của Nhà nước

Chức năng xã hội của nhà nước nói lên rằng bất kỳ nhà nước nào cũng phải thực hiện việc quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, phải lo một số công việc chung của tòan xã hội; trong giới hạn có thể được, phải thỏa mãn một số nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước.        

 Trong hai chức năng đó thì chức năng thống trị chính trị là cơ bản nhất, chức năng xã hội phải phụ thuộc và phục vụ cho chức năng thống trị chính trị. 

Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại

Chức năng đối nội có hai mặt: Một là, duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và các trật tự xã hội khác  theo luật pháp của giai cấp thống trị; đồng thời sử dụng các phương tiện khác như bộ máy thông tin, tuyên truyền văn hóa, giáo dục… để xác lập và củng cố hệ tư tưởng của giai cấp thống trị biến nó thành tư tưởng thống trị trong xã hội. Hai là, quản lý và giải quyết các nhu cầu của xã hội (cũng còn gọi là chức năng quản lý công cộng). Hai mặt của chức năng đối nội có quan hệ biện chứng, trong đó mặt thống trị giai cấp là mục đích, còn mặt xã hội là cơ sở, là điều kiện để thực hiện chức năng giai cấp.

Chức năng đối ngoại thể hiện quan hệ của nhà nước với các quốc gia khác trên trường quốc tế. Trong chức năng này, tùy bản chất của từng nhà nước mà có thể là việc tổ chức tòan dân chống lại ngoại xâm, phòng thủ đất nước. Cũng có thể là việc mở rộng lãnh thổ bằng cách phát động chiến tranh xâm lược, tìm kiếm thị trường, thuộc địa … Ngày nay, trong xu thế hòa bình, hợp tác, chức năng đối ngoại thể hiện ở việc tổ chức, thực hiện các quan hệ hợp tác về từng mặt hay nhiều mặt (kinh tế, chính trị, văn hóa…), song phương hay đa phương.  

Chức năng đối nội cũng như chức năng đối ngoại của nhà nước đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Nếu quyền lợi của mình bị trực tiếp đe doạ bởi phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân, thì giai cấp bóc lột sẵn sàng thoả hiệp, thậm chí đầu hàng bọn xâm lược bên ngoài để đối phó với cuộc nổi dậy của nhân dân trong nước. Chúng là một thể thống nhất, trong đó, chức năng đối nội là chủ yếu và có ý nghĩa quyết định; chức năng đối ngoại là kế tục chức năng đối nội, phục vụ cho đối nội. Do đó, đường lối đối nội của một nhà nước quyết định đường lối đối ngoại của nhà nước đó.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi về nội dung “Phân tích nguồn gốc, bản chất, chức năng của Nhà nước“. Hi vọng bài viết mang lại thông tin hữu ích với bạn đọc.

Câu hỏi thường gặp:

Nhà nước có đặc trưng gì?

Ph. Ăngghen cho rằng, nhà nước có ba đặc trưng cơ bản.
Một là, nhà nước quản lý cư dân trên một vùng lãnh thổ nhất định. Nhà nước được hình thành trên cơ sở phân chia dân cư theo lãnh thổ mà họ cư trú.
Hai là, nhà nước có hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên
Ba là, nhà nước có hệ thống thuế khóa để nuôi bộ máy chính quyền.

Tính giai cấp của nhà nước được thể hiện như thế nào?

Tính giai cấp nhà nước được thể hiện: nhà nước đó do giai cấp nào tổ chức thành, quyền lực nhà nước nằm trong tay giai cấp nào; bảo vệ lợi ích của giai cấp nào là chủ yếu. Tính chất giai cấp của nhà nước quy định nội dung hoạt động của nhà nước.

5/5 - (1 bình chọn)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết liên quan

.
.
.
Sơ đồ bài viết