fbpx
ICA - Học viện đào tạo pháp chế doanh nghiệp
Bài giảng môn học Tội phạm học chương II

Bài giảng môn học Tội phạm học chương II tập trung vào Lịch sử ra đời và phát triển của Tội phạm học, là phần kiến thức cơ bản giúp sinh viên hiểu rõ về quá trình hình thành và phát triển của lĩnh vực nghiên cứu tội phạm. Chương này sẽ cung cấp những thông tin quan trọng về sự phát triển của Tội phạm học từ những nền tảng lý thuyết sơ khai cho đến khi trở thành một ngành khoa học xã hội độc lập, nghiên cứu về nguyên nhân, hậu quả của tội phạm, cũng như các biện pháp phòng ngừa và xử lý tội phạm trong xã hội hiện đại.

Bài giảng môn học Tội phạm học chương II

Chương 2: Lịch sử ra đời và phát triển của Tội phạm học

I. Trường phái tội phạm học cổ điển

– Thời gian tồn tại: từ 1700 đến 1880

– Học giả tiêu biểu:

+ Cesare Beccaria: được coi là ông tổ của tội phạm học cổ điển, với tác phẩm kinh điển “Tội phạm và hình phạt” năm 1764

+ Jeremy Bentham: học trò của Cesare Beccaria, với tác phẩm nổi tiếng “Lời giới thiệu tới các nguyên tắc của đạo đức và luật pháp” năm 1798

1. Nội dung chính

– Khoảng thế kỷ 18, ở châu Âu xuất hiện “thời kỳ khai sáng”. Đây là giai đoạn của Triết học, chi phối hầu hết tri thức của nhân loại.

– Theo quan điểm của triết học thì nguyên nhân của tội phạm là do tự do ý chí và suy nghĩ lý trí.

Quan điểm này đến nay vẫn còn nguyên giá trị, thể hiện ở yếu tố “có lỗi” “lỗi cố ý” trong PL hình sự.

2. Nguyên nhân của tội phạm theo quan điểm của các học giả tội phạm học cổ điển

a. Cesare Beccaria

– Cesare Beccaria cũng thừa nhận và khẳng định suy cho cùng nguyên nhân của tội phạm là do các yếu tố thuộc về cá nhân. Năm 1764, Cesare Beccaria xuất bản cuốn sách: “Tội phạm và hình phạt”, trong đó có nhiều quan điểm tiến bộ, ông cũng đề cao vai trò phòng ngừa tội phạm của hình phạt.

Bài giảng môn học Tội phạm học chương II
Bài giảng môn học Tội phạm học chương II

– Theo Cesare Beccaria, hình phạt là phương tiện để phòng ngừa tội phạm hiệu quả, cách tốt nhất để phòng ngừa tội phạm là luật phải được quy định đơn giản và rõ ràng, khen thưởng người có đạo đức tốt và cải thiện nền giáo dục, bên cạnh đó cần cải thiện hệ thống tư pháp hình sự theo hướng nhân đạo.

Cesare Beccaria đưa ra nhiều quan điểm tiến bộ:

+ không có bất kỳ ai được đứng trên luật pháp, kể cả giới quý tộc và những nhà lãnh đạo

+ đồng thời mọi người đều bình đẳng, nên việc người này quyết định tước đoạt mạng sống của người khác là vô lý, nên Cesare Beccaria đề nghị bỏ án tử hình

+ phòng ngừa tội phạm tốt hơn là trừng trị tội phạm

+ khi quyết định hình phạt phải căn cứ vào hành vi phạm tội chứ không được căn cứ vào chủ thể phạm tội

+ thẩm phán là người áp dụng PL chứ không phải là người ban hành PL (rất phù hợp với quan điểm của hệ thống Civil Law, nhưng lại trái với quan điểm của Common law)

+ khi quyết định hình phạt phải dựa trên “niềm vui thích” và “sự đau khổ”: khi 1 người thực hiện hành vi phạm tội vui thích như thế nào, thì khi họ phải chịu hình phạt họ sẽ phải chịu đau khổ tương ứng như vậy

==> đến tận ngày nay tư tưởng của Cesare Beccaria vẫn được nhiều quốc gia tuân theo để xây dựng hệ thống tư pháp dân chủ và hiệu quả

b. Jeremy Bentham

– Theo Jeremy Bentham thì nguyên nhân của tội phạm cũng là do tự do ý chí và suy nghĩ lý trí. Tên tuổi của ông gắn liền với “thuyết vị lợi” (thuyết thực dụng): trước khi thực hiện hành vi phạm tội, con người bao giờ cũng cân nhắc giữa cái được và cái mất, nếu cái được nhiều hơn cái mất thì họ sẽ thực hiện hành vi, ngược lại nếu cái được ít hơn cái mất thì họ sẽ không thực hiện hành vi ==> do đó hình phạt phải tương ứng với hành vi phạm tội và đây là biện pháp phòng ngừa tội phạm hiệu quả

– Jeremy Bentham đề ra 3 giải pháp phòng ngừa tội phạm:

+ cải cách lại hệ thống nhà tù: xây dựng nhà thù theo kiến trúc “hình xoáy ốc”, theo đó người quản tù đứng ở vị trí trung tâm của “xoáy ốc” để quan sát mọi hành vi của tù nhân (bị coi là vi phạm nhân quyền vì ngay cả tù nhân cũng vẫn còn 1 số quyền con người)

+ xăm trổ lên người phạm tội: để ngăn ngừa nguy cơ người phạm tội tái phạm (tuy nhiên lại bị coi là vi phạm nhân quyền)

+ xây dựng đội cảnh sát tuần tra: biện pháp này được sử dụng rộng rãi trên thế giới đến tận ngày nay

II. Trường phái tội phạm học thực chứng

– Thời gian tồn tại: chia làm 2 giai đoạn

+ 1880 – 1930: giai đoạn đầu

+ 1930 – nay: thời kỳ hiện tại

– Học giả tiêu biểu:

+ Cesare Lombroso: cha đẻ của tội phạm học thực chứng, với tác phẩm “Người phạm tội”

+ Enrico Ferri, Raffaele Garofalo, Buckman Goring, …

1. Nội dung chính

– Từ nửa cuối thế kỷ 19, triết học không còn giữ vai trò độc tôn, nhiều ngành khoa học mới xuất hiện, trong đó nổi lên là sự xuất hiện của chủ nghĩa thực chứng: muốn tìm hiểu 1 sự vật, hiện tượng hoặc tìm ra quy luật cần phải sử dụng phương pháp khoa học.

– Theo chủ nghĩa thực chứng, con người không phải hoàn toàn được tự do lựa chọn thực hiện hành vi phạm tội, nói cách khác có những nhân tố nằm ngoài sự kiểm soát của họ dẫn đến hành vi phạm tội của họ. Nhiều nhà khoa học đã ứng dụng thành tựu của các ngành khoa học khác để nghiên cứu về con người phạm tội, từ đó giải thích nguyên nhân của tội phạm, như ứng dụng các thành tựu của sinh vật học, tâm lý học, xã hội học, …

2. Nguyên nhân của tội phạm theo quan điểm của các nhà tội phạm học thực chứng

a. Các thuyết sinh học quyết định

– Cesare Lombroso:

+ Là người đầu tiên kết hợp giữa chủ nghĩa thực chứng và nghiên cứu về sinh học của Darwin về nguồn gốc loài người để giải thích nguyên nhân của tội phạm. Ông cho rằng nguyên nhân của tội phạm là do các yếu tố sinh học quyết định. Năm 1876, ông xuất bản cuốn sách “Người phạm tội”, trong đó đưa ra khái niệm “người phạm tội bẩm sinh” hay người mắc bệnh “lại giống”.

+ Cesare Lombroso đã thay thế quan niệm của tội phạm học cổ điển (cho rằng tự do ý chí, sự lựa chọn của cá nhân là nguyên nhân của tội phạm) bằng quan điểm cho rằng nguồn gốc phát sinh tội phạm bắt nguồn từ nguyên nhân loại cơ thể. Theo đó ông đã phát triển tội phạm học theo hướng mới, giải thích nguyên nhân của tội phạm thông qua nghiên cứu và thí nghiệm, đó chính là trường tội phạm học thực chứng. Cụ thể ông đã sử dụng rộng rãi các biện pháp và phương pháp thống kê trong việc xử lý các dữ liệu về nhân chủng học, xã hội, kinh tế.

+ Bằng cách nghiên cứu hộp sọ, diện mạo khuôn mặt, hình dáng của những người tù (còn sống hoặc đã chết), Cesare Lombroso cho rằng có thể đoán biết họ có phải là người phạm tội bẩm sinh hay không, tức là có đồng thời 5 đặc điểm (cả nam và nữ):

  • Miệng rộng, hàm răng khỏe, trán dốc, ngắn (là những đặc điểm của loài ăn thịt sống)
  • Xương gò má nhô cao, mũi bẹt
  • Tai hình dáng quai xách (tai vểnh)
  • Mũi diều hâu, môi to dày, mắt gian xảo, lông mày rậm
  • Không nhạy cảm với đau đớn, cánh tay dài hơn cẳng chân (giống loài khỉ)

+ Cesare Lombroso cho rằng người phạm tội có đặc điểm giống với tổ tiên của loài người hơn là công dân bình thường, đó là những dấu hiệu của bệnh “lại giống”, tức là quay trở lại với giống nòi của mình (loài khỉ, vượn người), có những đặc điểm nổi bật của loài người ở giai đoạn phát triển thấp, trước khi họ trở thành người.

+ Để phòng ngừa tội phạm, Cesare Lombroso cho rằng cần biệt lập những người phạm tội bẩm sinh khỏi xã hội mà không cần chờ đến lúc họ phạm tội. Tuy nhiên ông ủng hộ quan điểm cần đối xử nhân đạo với người phạm tội và phản đối việc áp dụng án tử hình đối với người phạm tội.

– Ernst Kretschmer, William Sheldon: đưa ra trường phái “kiểu cơ thể”, theo đó kiểu “to, khỏe, lực lưỡng” có nguy cơ phạm tội cao hơn so với 2 kiểu “gày gò, ốm yếu, vai hẹp” và “cao trung bình, mũm mĩm, cổ to, mặt rộng”

– Richard Louis Dugdale, Henry Goddard: đưa ra Thuyết phạm tội do thừa kế, theo đó người phạm tội là do kế thừa “gen xấu” từ thế hệ trước. Cơ sở là sự nghiên cứu của 1 số dòng họ có tỷ lệ người phạm tội nhiều hơn so với các dòng học khác.

+ thuyết “phạm tội do thừa kế” dẫn tới sự hình thành và phát triển của phong trào “ưu sinh”, là phong trào sinh sản có điều khiển để cải tạo chất lượng nòi giống. Theo đó để phòng ngừa tội phạm thì phải không để cho gen xấu từ thế hệ trước truyền sang thế hệ sau, tức là “triệt sản” đối với người phạm tội. Phong trào ưu sinh phát triển và lan rộng khắp nước Mỹ từ những năm 1920 đến trước thế chiến II. Sau đó phong trào này lan sang châu Âu, là đỉnh điểm là khi phát xít Đức lợi dụng triệt để để tàn sát người Do Thái và người tàn tật.

– Patricia Jacobs: đưa ra Thuyết nhiễm sắc thể, theo đó người phạm tội là do có kiểu nhiễm sắc thể bất thường

a. Các thuyết tâm lý quyết định

– Gabriel Tarde: đưa ra Thuyết bắt chước, theo đó nguyên nhân của tội phạm là do 1 người đã bắt chước hành vi phạm tội của người khác mà người đó có cơ hội quan sát. Có 3 loại bắt chước:

+ những người có địa vị ngang bằng nhau và có tần số tiếp xúc thường xuyên với nhau thì có xu hướng bắt chước nhau (cá nhân bắt chước những người khác cân xứng với mức độ và tần số tiếp xúc của họ). VD bạn bè thường có xu hướng bắt chước nhau

+ người ở tầng lớp dưới thường bắt chước người ở tầng lớp cao hơn. VD trẻ con bắt chước người lớn, học sinh bắt chước thầy cô, người nông thôn bắt chước người thành thị

==> ngày nay vẫn còn giá trị: ở việc coi trọng giáo dục, coi trọng việc “làm gương” của cha mẹ, thầy cô

+ nếu có nhiều khuynh hướng, khuôn mẫu khác nhau thì con người sẽ chọn cái chiếm ưu thế hơn

==> ngày nay vẫn còn giá trị: tác động của phương tiện truyền thông, mạng xã hội, phim ảnh đến giới trẻ

– Sigmund Freud: thuyết phân tâm học, cho rằng tồn tại năng lực tình dục thúc đẩy hành vi của con người. Năng lực tình dục đó được gọi là libido, trong libido có 2 lực lượng đối chọi nhau là bản năng sống (eros-hướng tới hoạt động) và bản năng chết (thanatos-hướng tới hoạt động tự hủy diệt). Ông đưa ra khái niệm bản năng, bản ngã, siêu bản ngã:

+ bản năng tượng trưng cho phần vô thức và chống đối xã hội của cá nhân

+ bản ngã tượng trưng cho cho phần ý thức và ý chí của cá nhân

+ siêu bản ngã biểu hiện cho phần giá trị văn hóa với chức năng như là lương tâm cá nhân

Theo Freud, hành vi tội phạm diễn ra khi ở 1 cá nhân, phần bản năng lấn át bản ngã trong khi siêu bản ngã hoạt động kém hiệu quả

b. Thuyết xã hội quyết định

– Emile Durkkeim: thuyết rối loạn tổ chức xã hội, theo đó hành vi phạm tội không phải do các yếu tố thuộc về cá nhân mà là do các yếu tố thuộc về môi trường, về xã hội, cụ thể là do sự rối loạn, vô tổ chức của xã hội, do sự phân công lao động xã hội không hợp lý. Quan điểm của Emile Durkkeim:

+ tội phạm là tồn tại tất yếu của xã hội: tức là tội phạm không thể biến mất, chỉ có thể hạn chế, đẩy lùi tội phạm; nếu tội phạm biến mất thì xã hội cũng tiêu vong

+ tội phạm là thước đo cho sự phát triển của xã hội: VD trước đây chưa hề có khái niệm về “tội phạm công nghệ cao”, chỉ đến khi khoa học phát triển thì mới xuất hiện loại tội phạm này. Chính về vậy quan sát tội phạm có thể đánh giá được mức độ phát triển của xã hội đó.

– Edwin Sutherland: đưa ra thuyết học lại từ xã hội, theo đó hành vi phạm tội là do sự “học lại” hành vi của một nhóm xã hội (khác với thuyết bắt chước là sự “học hỏi” từ 1 cá nhân khác)

Tham khảo trọn bộ bài giảng các môn học Tội phạm học: https://study.phapche.edu.vn/khoa-hoc-tim-hieu-mon-toi-pham-hoc?ref=lnpc

Mời bạn xem thêm:

Đánh giá bài viết

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết liên quan

.
.
.