fbpx
ICA - Học viện đào tạo pháp chế doanh nghiệp
Câu hỏi đề cương ôn thi môn Luật hành chính

Luật Hành chính là một lĩnh vực quan trọng trong hệ thống pháp luật, quy định về hoạt động quản lý nhà nước, quyền và nghĩa vụ của công dân trong mối quan hệ với cơ quan nhà nước. Việc hiểu rõ các quy định của Luật Hành chính sẽ giúp bạn nắm bắt được cách thức xử lý các vấn đề pháp lý, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Khám phá ngay các thông tin chi tiết về Luật Hành chính để nắm vững những nguyên tắc và quy định quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước trong bài viết “Câu hỏi đề cương ôn thi môn Luật hành chính” sau đây.

Câu hỏi đề cương ôn thi môn Luật hành chính

Câu 1: Khái niệm luật hành chính Việt Nam?

Trả lời:

Luật hành chính Việt Nam là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ chấp hành và điều hành phát sinh trong quá trinh tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước; trong hoạt động hành chính nội bộ mang tính chất phục vụ cho các cơ quan nhà nước khác; trong hoạt động của các cơ quan nhà nước khác hoặc các tổ chức xã hội khi được nhà nước trao quyền thực hiện hoạt động đó.

(Kiến thức bổ sung)

1. Đối tượng điều chỉnh: gồm 3 nhóm lớn

– Những quan hệ chấp hành và điều hành phát sinh trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước- đây là nhóm lớn nhất, cơ bản nhất và do đó quan trọng nhất

– Những quan hệ chấp hành và điều hành phát sinh trong hoạt động hành chính nội bộ phục vụ cho hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, HĐ ND, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp và Kiểm toán nhà nước

– Những quan hệ hành chính phát sinh trong hoạt động của các cơ quan Kiểm toán nhà nước, Hội đồng nhân dân các cấp, Tòa án nhân dân các cấp và Viện kiểm sát nhân dân các cấp hoặc tổ chức xã hội khi được Nhà nước trao quyền thực hiện nhiệm vụ, chức năng hành chính nhà nước

2. Phương pháp điều chỉnh:

Phương pháp điều chỉnh của Luật hành chính là mệnh lệnh đơn phương, được hình thành từ quan hệ quyền lực – phục tùng, mối quan hệ này biểu hiện:

Giữa một bên nhân danh nhà nước ra những mệnh lệnh bắt buộc thi hành và một bên có nghĩa vụ phục tùng.

Quan hệ quyền lực phục tùng biểu hiện sự không bình đẳng giữa các bên tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính, sự không bình đẳng thể hiện:

Chủ thể quản lý có quyền nhân danh nhà nước áp đặt ý chí lên đối tượng quản lý.

Chủ thể quản lý căn cứ vào pháp luật để phê chuẩn hoặc bãi bỏ yêu cầu, đề nghị của cấp dưới, của công dân tổ chức.

Phối hợp hoạt động giữa các chủ thể mang quyền lực nhà nước.

Ví dụ: Khi các bộ thực hiện công tác đào tạo thì hình thức, quy mô đào tạo thì phải được sự đồng ý của Bộ Giáo dục Đào tạo.

Chủ thể quản lý có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính và đối tượng quản lý phải thực hiện

3. Nguồn luật hành chính: là những hình thức chứa các quy phạm pháp luật hành chính.

Có thể chia loại nguồn của luật HC theo căn cứ :

  • Theo phạm vi hiệu lực : Văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở TW và của các cơ quan nhà nước ở địa phương.
  • Theo cấp độ hiệu lực pháp lý: Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật dưới luật

Theo pháp luật hiện hành, nguồn luật HCVN bao gồm:

  • Hiến pháp năm 2013.
  • Luật tổ chức CP năm 2001.
  • Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và UBND năm 2003.
  • Cán bộ luật, đạo luật về quản lý các ngành và lĩnh vực về các tổ chức xã hội và các tổ chức nhà nước khác.
  • Nghị quyết của Quốc hội.
  • Pháp lệnh và nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
  • Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
  • Nghị định của CP, quyết định của thủ tướng CP.
  • VB QPPL của Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
  • Thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
  • Quyết định của Tổng kiểm toán nhà nước.
  • VB quy định PL liên tịch.
  • Nghị quyết của HDND các cấp, quyết định của UBND các cấp.

Câu 2: Hãy chứng minh: Luật Hành chính là một ngành luật về hành chính nhà nước (quản lý hành chính nhà nước).

– Quản lý hành chính nhà nước là tổ chức thực hiện quyền hành pháp bằng hoạt động chấp hành pháp luật, văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và điều hành hoạt động trong các lĩnh vực tổ chức đời sống xã hội của các cơ quan Nhà nước mà chủ yếu là các cơ quan HCNN và những người được ủy quyền, được tiến hành trên cơ sở thi hành pháp luật nhằm thực hiện trong đời sống hằng ngày các chức năng của Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa, xã hội. Như vậy, bản chất của QLHCNN thể hiện ở các mặt chấp hành và điều hành.

– Chủ thể cúa quản lý hành chính nhà nước là các cơ quan nhà nước (chủ vếu là các cơ quan hành chính nhà nước), các cán bộ nhà nước có thẩm quvền, các tổ chức và cá nhân được nhà nước trao quyền quán lý hành chính trong một số trường hợp cụ thể.

Những chủ thể kể trên khi tham gia vào các quan hệ quản lý hành chính cớ quyền sử dụng quyền lực nhà nước được chỉ đạo các đối tượng quản lý thuộc quyền nhằm thực hiện nhiệm vụ quản lý đổng thời bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước.

– Khách thể của quản lý hành chính nhà nước là trật tự quản lý hành chính tức là trật tự quản lý trong lĩnh vực chấp hành – điểu hành. Trật tự quản lý hành chính do các quy phạm pháp luật hành chính quy định.

– Trong khi đó, Luật Hành chính là tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành nhà nước. Luật Hành chính hướng sự quy định và các vấn đề chủ yếu: tổ chức QLHCNN và kiểm soát đối với QLHCNN.

– Đối tượng điều chỉnh của Luật Hành chính là những quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt động QLHCNN. Đo đó, chúng ta có thể khẳng định Luật Hành chính là một ngành luật về tổ chức và quản lý nhà nước.

Câu 3: Phương pháp điều chỉnh của Luật hành chính được thể hiện trong quan hệ pháp luật hành chính như thế nào?

Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là phương pháp mệnh lệnh được hình thành từ quan hệ “quyền lực – phục tùng” giữa một bên có quyền nhân danh nhà nước ra những mệnh lệnh bắt buộc đối với bên kia là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có nghĩa vụ phục tùng các mệnh lệnh đó. Sự không bình đẳng đó là sự không bình đẳng về ý chí và thể hiện rõ nét ở những điểm sau:

– Trước hết, sự không bình đẳng trong quan hệ quản lý hành chính nhà nước thể hiện ở chỗ chủ thể quản lý có quyền nhân danh nhà nước để áp đặt ý chí của mình lên đối tượng quản lý. Các quan hệ này rất đa dạng nên việc áp đặt ý chí của chủ thể quản lí lên đối tượng quản lý trong những trường hợp khác nhau được thực hiện dưới những hình thức khác nhau:

+ Hoặc một bên có quyền ra các mệnh lệnh cụ thể hay đặt ra các quy định bắt buộc đối với bên kia và kiểm tra việc thực hiện chúng. Phía bên kia có nghĩa vụ thực hiện các quy định, mệnh lệnh của cơ quan có thẩm quyền. Ví dụ điển hình cho trường hợp này là quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới, giữa thủ trưởng với nhân viên.

+ Hoặc một bên có quyền đưa ra yêu cầu, kiến nghị còn bên kia có quyền xem xét, giải quyết và có thể đáp ứng hay bác bỏ yêu cầu, kiến nghị đó. Ví dụ: Công dân có quyền yêu cầu (cùng với những giấy tờ nhất định) công an quận, huyện giải quyết cho di chuyển hộ khẩu. Công an quận, huyện xem xét và có thể chấp nhận yêu cầu (nếu hồ sơ của công dân đó là hợp lệ) hoặc không chấp nhận (nếu hồ sơ không đầy đủ, không hợp lệ).

+ Hoặc cả hai bên đều có quyền hạn nhất định nhưng bên này quyết định điều gì phải được bên kia cho phép hay phê chuẩn hoặc cùng phối hợp quvết định. Ví dụ: Quan hệ giữa Bộ giáo dục và đào tạo và các bộ khác về việc quyết định hình thức, quy mô đào tạo. Việc các bộ khác quvết định hình thức, quy mô đào tạo phải được Bộ giáo dục và đào tạo cho phép hay phê chuẩn.

– Biểu hiện thứ hai của sự không bình đẳng thể hiện ở chỗ một bên có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhằm buộc đối tượng quản lí phải thực hiện mệnh lệnh của mình. Các trường hợp này được pháp luật quy định cụ thể nội dung và giới hạn.

Sự không bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước luôn thể hiện rõ nét, xuất phát từ quy định pháp luật, hoàn toàn khống phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các bên tham gia vào quan hệ đó.

Sự không bình đẳng giữa các bên là các cơ quan trong bộ máy nhà nước bắt nguồn từ quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới trong tổ chức của bộ máy nhà nước. Sự không bình đẳng giữa các cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế, các tổ chức và cá nhân khác không bắt nguồn từ quan hệ tổ chức mà từ quan hệ “quyền lực – phục tùng”. Trong các quan hệ đó, cơ quan hành chính nhà nước nhân danh nhà nước để thực hiện chức năng chấp hành – điều hành trong lĩnh vực được phân công phụ trách. Do vậy, các đối tượng kể trên phải phục tùng ý chí của Nhà nước mà người đại diện là cơ quan hành chính nhà nước.

– Sự không bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lí hành chính nhà nước còn thể hiện rõ nét trong tính chất đơn phương và bắt buộc của các quyết định hành chính

Các cơ quan hành chính nhà nước và các chủ thể quản lí hành chính khác, dựa vào thẩm quyền của mình, trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình có quyền ra những mệnh lệnh hoặc đề ra các biện pháp quản lí thích hợp đối với từng đối tượng cụ thể. Những quyết định ấy có tính chất đơn phương vì chúng thế hiện ý chí cúa chủ thể quản lí hành chính nhà nước trên cơ sờ quyền lực đã được pháp luật quy định.

Những quyết định hành chính đơn phương đều mang tính chất bắt buộc đối với các đối tượng quản lý. Tính chất bắt buộc thi hành của các quyết định hành chính được bảo đảm bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Tuy nhiên, các quyết định hành chính đơn phương không phải bao giờ cũng được thực hiện trên cơ sở cưỡng chế mà được thực hiện chủ yếu thông qua phương pháp thuyết phục.

Câu 4: Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là gì ? So sánh với các ngành luật khác ?

1. Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính

Phương pháp điều chỉnh là cách thức mà nhà nước áp dụng trong việc điều chỉnh bằng pháp luật để tác động vào các quan hệ xã hội.

Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là phương pháp mênh lệnh được hình thành từ quan Ịiệ “quyền lực – phục tùng” giữa một bên có quyền nhân danh nhà nước ra những mệnh lệnh bắt buộc đối vói bên kia là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có nghĩa vụ phục tùng các mệnh lệnh đó. Chính mối quan hệ “quyền lực – phục tùng” thể hiện sự không bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lí hành chính nhà nước. Sự không bình đẳng đó là sự không bình đẳng về ý chí và thể hiên rõ nét ở những điểm sau:

– Trước hết, sự không bình đẳng trong quan hệ quản lí hành chính nhà nước thể hiên ở chỗ chủ thể quản lí có quyền nhân danh nhà nước để áp đặt ý chí của mình lên đối tượng quản lí. Các quan hệ này rất đa dạng nên việc áp đặt ý chí của chủ thể quản lí lên đối tượng quản lí trong những trường hợp khác nhau được thực hiện dưới những hình thức khác nhau:

+ Hoặc một bên có quyền ra các mệnh lệnh cụ thể hay đặt ra các quy định bắt buộc đối với bên kia và kiểm tra việc thực các cơ quan hành chính nhà nước vối các tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế, các tổ chức và cá nhân khác không bắt nguồn từ quan hệ tổ chức mà từ quan hệ “quyền lực – phục tùng”. Trong các quan hệ đó, cơ quan hành chính nhà nước nhân danh nhà nước để thực hiện chức năng chấp hành – điều hành trong lĩnh vực được phân công phụ trách. Do vậy, các đối tượng kể trên phải phục tùng ý chí của Nhà nước mà người đại diện là cơ quan hành chính nhà nước.

– Sự không bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lí hành chính nhà nước còn thể hiện rõ nét trong tính chất đơn phương và bắt buộc của các quyết định hành chính.

Các cơ quan hành chính nhà nước và các chù thể quản lí hành chính khác, dựa vào thẩm quyền của mình, trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình có quyền ra những mệnh lệnh hoặc đề ra các biện pháp quản lí thích hợp đối với từng đôì tượng cụ thể. Những quyết định ấy có tính chất đơn phương vì chúng thể hiện ý chí của chủ thể quản lí hành chính nhà nước trên cơ sở quyền lực đã được pháp luật quy định.

Trong thực tiễn quản lí có những trường hợp cơ quan hành chính nhà nước ra quyết định do yêu cầu của cơ quan cấp dưới, đơn vị trực thuộc hay của cá nhân. Cũng có nhiều trường hợp trước khi ra quyết định các chủ thể quản lí hành chính nhà nước tổ chức trao đổi, thảo luân về nội dung quyết định với sự tham gia của đại diện cho cơ quan cấp dưới, đơn vị trực thuộc hoặc những đối tượng có liên quàn. Ngay cả trong những trường hợp này quyết định của cơ quan có thẩm quyền vẫn có tính chất đơn phương bởi vì yêu cầu của các đối tượng có liên quan, của cấp dưới hoặc ý kiến đóng góp trong các cuộc thảo luận không có tính chất quỹết định mà chỉ là những ý kiến để chủ thể quản lí hành chính nhà nước nghiên cứu, xem xét, tham khảo trước khi ra quyết định. quy phạm luật hành chính.

Do vậy, có nhiều quan hệ xã hội đồng thời được điều chỉnh bởi các quy phạm luật hiến pháp và các quy phạm luật hành chính. Các quy phạm luật hiến pháp quy định những vấn đề chung và cơ bản, còn quy phạm luật hành chính cụ thể hoá quy phạm luật hiến pháp để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hoạt động chấp hành – điều hành của nhà nước. Nói cách khác, các quy phạm luật hiến pháp quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trong trạng thái tĩnh, còn các quy phạm luật hành chính quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trong trạng thái động.

2. So sánh phương áp điều chỉnh luật hành chính với luật dân sự

Việc phân biệt hai ngành luật này chủ yếu dựa vào phương pháp điều chỉnh. Phương pháp điều chỉnh chủ yếu của luật dân sự là bình đẳng, thoả thuận; phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là mệnh lệnh đơn phương. Trong quan hệ pháp luật dân sự các chủ thể bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Trong quan hệ pháp luật hành chính các chủ thể không bình đẳng về quyền và nghĩa vụ: Một bên có quyền ra mệnh lệnh còn bên kia có nghĩa vụ phải phục tùng.

Ngoài ra, để phân biệt hai ngành luật này còn có thể căn cứ vào đối tượng điều chỉnh của chúng. Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự là những quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá – tiền tệ và các quan hệ nhân thân. Đối tượng điều chỉnh của luật hành chính là các quan hê xã hội phát sinh trong lĩnh vực chấp hành – điều hành.

Trong một số trường hợp, hai ngành luật này cùng điều chỉnh những quan hệ về tài sản nhưng ở các góc độ khác nhau. Luật dân sự quy định nội dung quyền sở hữu, những hình thức chuyển nhượng, sử dụng, định đoạt tài sản… Luật hành chính quy định những vấn đề như thẩm quyền giải quyết ngân sách, quản lí và phân phối nguồn vốn của nhà nước, công tác tín dụng, quản lí lưu thông tiền tệ V.V..

Các quy phạm của luật hành chính chủ yếu quy định thẩm quyền cùa bộ máy quản lí tài chính, cơ cấu tổ chức cũng như trình tự, thủ tục hoạt động của bộ máy đó và thủ tục tiến hành các quan hê tài chính. Còn các quy phạm của luật tài chính chủ yếu điều chỉnh bản thân các quan hệ tài chính, xác định nội dung các quyết định của các cơ quan tài chính.

3. So sánh phương áp điều chỉnh Luật hành chính với luật lao động

Hai ngành luật này cùng điều chỉnh các vấn đề về tuyển dụng, sử dụng, cho thôi việc đối với cán bộ, công chức, viên chức nhưng từ những góc độ khác nhau.

Luật lao động điều chỉnh các vấn đề có liên quan trực tiếp tới quyền và lợi ích của người lao động như quyền được nghỉ ngơi, quyền được trả lương, được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội và bảo hộ lao động V.V..

Luật hành chính xác định thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước trong lĩnh vực lao động đồng thời điều chỉnh những quan hệ liên quan đến việc tổ chức quá trình lao động và quy chế công vụ, quy định thủ tục tuyển dụng, cho thôi việc, khen thưởng, kỉ luật v.v. đối với cán bộ, công chức, viên chức.4. So sánh phương áp điều chỉnh Luật hành chính với luật tố tụng hành chính

Luật hành chính quy định thẩm quyền và thủ tục giải quyết các khiếu nại hành chính. Thủ tục giải quyết các khiếu nại hành chính do luật hành chính quy định là thủ tục hành chính.

Luật tố tụng hành chính quy định thẩm quyền và thủ tục giải quyết khiếu kiện hành chính. Thủ tục giải quyết khiếu kiện hành chính do luật tố tụng hành chính quy định là thủ tục tố tụng. Những nhiệm vụ đặt ra trước bộ máy nhà nước nói chung và trước từng cơ quan nhà nước nói riêng.

Nguồn của luật hành chính không phải là tất cả các văn bản quy phạm pháp luật mà chỉ bao gồm những văn bản quy phạm pháp luật có các quy phạm pháp luật hành chính, tức là những quy phạm pháp luật được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước.

Phần lớn và là phần quan trọng trong nguồn của luật hành chính là những văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan quyền lực nhà nước và các cơ quan hành chính nhà nước ban hành trong phạm vi thẩm quyền của từng cơ quan.

Thông thường, các văn bản quy phạm pháp luật hành chính được ban hành bởi một cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, cũng có những văn bản do nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc một cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cơ quan trung ương của tổ chức chính trị-xã hội phối hợp ban hành.

Câu hỏi đề cương ôn thi môn Luật hành chính
Câu hỏi đề cương ôn thi môn Luật hành chính

Từ những điều đã phân tích ở trên cho thấy luật hành chính có hệ thống nguồn khá phức tạp. Nếu xem xét kĩ hơn thì điều đó có nghĩa là không có cơ quan chuyên ban hành chỉ riêng các văn bản quy phạm pháp luật hành chính. Chúng được ban hành bởi nhiều cơ quan khác nhau, có chức năng và nhiệm vụ khác nhau, ở những cấp khác nhau. Tuy nhiên, những văn bản quy phạm pháp luật hành chính đều xuất phát từ một nguồn – đó là luật hiến pháp.

Căn cứ vào cơ quan ban hành, nguồn của luật hành chính gổm sáu loại:

– Văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà nước.

– Văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước.

Các luật quy định các vấn đề cơ bản thuộc lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, ván hoá, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoạt, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền và nghĩa vụ của công dân.

Các luật đều có nội dung là những quy định cụ thể, chi tiết những vấn đề cơ bản được ghi nhận trong hiến pháp. Thực tiễn lập pháp cho thấy luật quy định những vấn đề quan trọng trong quản lí nhà nước và xã hội khi những vấn đề đó đã chín muồi và có đủ điều kiện để Quốc hội quy định ổn định trong thời gian dài.

Trong các luật do Quốc hội ban hành, những luật có chứa đựng quy phạm pháp luật hành chính là nguồn quan trọng của luật hành chính (như Luật tổ chức Chính phủ, Luật Cán bộ, Công chức V.V.).

– Nghị quyết của Quốc hội:

Nghị quyết của Quốc hội được ban hành để quyết định nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội; dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương; điều chỉnh ngân sách nhà nước; phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; quy định chế độ làm việc của Quốc hội, uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội; phê chuẩn điều ước quốc tế và quyết định các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Quốc hội.

Những nghị quyết hoặc phần của nghị quyết có chứa đựng các quy phạm pháp luật hành chính được coi là nguồn của luật hành chính.

Ví dụ: Nghị quyết của Quốc hội số 64/2013/QH13 ngày 28/11/2013 quy định một số điểm thi hành Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

mà hội đồng nhân dân các cấp ban hành và được ban hành trong các trường hợp sau đây:

+ Quyết định những chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi hành hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên;

+ Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương;

+ Quyết định biện pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho;

+ Quyết định trong phạm vi thẩm quyền được giao những chủ trương, biện pháp có tính chất đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của địa phương nhằm phát huy tiềm năng của địa phương nhưng không được trái VỚỊ các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên;

+ Văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên giao cho hội đồng nhân dân quy định một vấn đề cụ thể.

Khi trong nghị quyết có các quy phạm pháp luật hành chính thì nghị quyết (hoặc một phần của nghị quyết) được coi là nguồn của luật hành chính.

Ví dụ: Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội số 08/2013/NQ-HDND ngày 17/7/2013 về số lượng, chức danh, mức phụ cấp đối với người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn và ở thôn, tổ dân phố trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Câu 5: Tương quan giữa luật hành chính với các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam?

Trả lời

– Chúng bổ trợ cho nhau. Cùng nhau hoàn thiện các quy tắc ứng xử hành vi để đảm bảo trật tự an toàn xã hội.

Ví dụ: Luật Hành chính cụ thể hóa chi tiết hóa và bổ sung các quy định của hiến pháp còn LHP đặt ra cơ chế đảm bảo chúng.

– Trong một số trường hợp chế tài hành chính không thể giải quyết được nên cần có sự hỗ trợ của các ngành luật khác.

Luật hành chính đóng vai trò rất lớn đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia vì hoạt động hành chính tác động toàn diện và trực tiếp tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Qua nghên cứu mối tương quan giữa Luật hành chính với các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, có thể khẳng định rằng Luật hành chính không chỉ là phương tiện đưa quy phạm vật chất của Luật hành chính vào cuộc sống mà còn đưa cả quy phạm vật chất của nhiều ngành luật khác vào thực thi trong đời sống thực tế. Do đó, quan tâm đến việc củng cố và hoàn thiện cơ chế điều chỉnh của Luật Hành chính là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với hệ thống pháp luật nước ta trong giai đoạn hiện nay

Câu 6: Mối quan hệ giữa luật hành chính với Luật hiến pháp; Luật hình sự; Luật đất đai; Luật Lao động?

Trả lời

– Hành chính với Hiến pháp:đối tượng điều chỉnh của LHP rộng hơn

+ Luật Hành chính cụ thể hóa, chi tiết hóa và bổ xung các quy định của HP

+ Luật Hành chính đặt ra cơ chế đảm bảo LHP.

Mối tương quan giữa Luật Hành chính với Luật Đất đai

Luật Đất đai là ngành luật điều chỉnh quan hệ giữa nhà nước với người sử dụng đất đai, đó là tổng hợp tất cả các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để bảo vệ đất đai-một tài sản quý của quốc gia và điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý, sử dụng và bảo vệ đất đai.

Trong quan hệ Luật Đất đai, nhà nước có tư cách vừa là đại diện chủ sở hữu đối với đất đai, vừa là người thực hiện quyền lực nhà nước. Bởi quan hệ đất đai chỉ xuất hiện, thay đổi hoặc chấm dứt khi có quyết định của cơ quan nhà nước giao đất cho người sử dụng đất. Các cơ quan quản lý nhà nước giám sát việc sử dụng đất của người sử dụng đất đai nhằm đảm bảo sử dụng đúng mục đích, đảm bảo hiệu quả kinh tế nhưng vẫn bảo vệ môi trường và giữ gìn độ phì nhiêu của đất đai nhưng không làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của người sử dụng đất. Trong những trường hợp do luật định, nhà nước có quyền đơn phương thu hồi đất, xử phạt hành chính đối với người sử dụng đất có hành vi vi phạm quy định của Luật Đất đai. Người sử dụng đất trong quan hệ Luật Đất đai là người chấp hành quyền lực nhà nước. Như vậy, Luật hành chính là phương tiện thực hiện Luật Đất đai. Có thể khẳng định giữa Luật Hành chính và Luật đất đai có mối liên hệ với nhau, đó là cùng điều chỉnh những quan hệ liên quan đến đất đai, những quan hệ đó xuất hiện nhằm mục đích bảo đảm sử dụng đất đai hợp lý, đúng mục tiêu, đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt và đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Mối tương quan giữa Luật Hành chính với Luật Hình sự

Luật Hình sự là một ngành luật quy định tội phạm, xác định hình phạt với các tội phạm nhằm đấu tranh chống tội phạm, loại trừ mọi hành vi nguy hiểm cho xã hội. Như vậy, quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ là quan hệ hình thành giữa Nhà nước và người phạm tội khi người đó thực hiện hành vi được Nhà nước quy định là tội phạm. Đây là ngành luật không điều chỉnh mọi quan hệ xã hội, mà chỉ điều chỉnh quan hệ xã hội liên quan đến tội phạm và hình phạt.

Luật Hình sự và Luật Hành chính cũng có điểm chung là cả hai ngành luật đều điều chỉnh các hành vi vi phạm pháp luật và cách xử lý đối với những hành vi này, chỉ khác trong Luật hình sự, tội phạm là loại vi phạm pháp luật có mức độ và tính chất nguy hiểm cho xã hội cao hơn so với Luật hành chính. Theo đó, Luật hình sự xác định hành vi nào là tội phạm, hình phạt nào được áp dụng đối với tội phạm ấy, điều kiện áp dụng các hình phạt đó. Còn Luật hành chính quy định các quy tắc có tính chất bắt buộc chung (quy tắc giao thông, vệ sinh, phòng cháy chữa cháy, lưu thông hàng hóa,…) mà nếu vi phạm các quy tắc này, trong một số trường hợp có thể bị xử lý hình sự theo quy định của Luật hình sự hoặc xử phạt vi phạm hành chính. Do mức độ và tính chất nguy hiểm cho xã hội cao hơn nên hình phạt đối với tội phạm do Luật hình sự quy định cũng nặng hơn những hình thức phạt và biện pháp cưỡng chế khác mà Luật hành chính quy định áp dụng đối với chủ thể thực hiện vi phạm hành chính. Trình tự xử lý và chủ thể có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính và tội phạm cũng khác nhau.

Mối tương quan giữa Luật Hành chính với Luật Lao động

Luật lao động là một ngành luật điều chỉnh quan hệ lao động giữa người lao động làm công ăn lương với người sử dụng lao động và các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp với quan hệ lao động.

Giữa Luật Hành chính và Luật Lao động có quan hệ chặt chẽ trong những trường hợp sau đây:

– Thẩm quyền của các cơ quan trực tiếp quản lý lao động như Bộ Lao động, thương binh và xã hội, Sở Lao động, thương binh và xã hội do Luật hành chính quy định (trong đó các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát công tác bảo hộ lao động và quy tắc an toàn lao động) nhưng bản thân các quy tắc về bảo hộ và an toàn lao động là thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Lao động

– Thông thường nội dung các văn bản cá biệt của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực lao động do Luật Lao động quy định, còn trình tự, thủ tục ban hành chúng thì do Luật Hành chính quy định.

– Luật Hành chính và Luật Lao động đều cùng điều chỉnh chế độ phục vụ, hoạt động công vụ nhà nước, vì cán bộ, công chức, viên chức là lực lượng lao động đặc biệt.

Luật hành chính đóng vai trò rất lớn đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia vì hoạt động hành chính tác động toàn diện và trực tiếp tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Qua nghên cứu mối tương quan giữa Luật hành chính với các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, có thể khẳng định rằng Luật hành chính không chỉ là phương tiện đưa quy phạm vật chất của Luật hành chính vào cuộc sống mà còn đưa cả quy phạm vật chất của nhiều ngành luật khác vào thực thi trong đời sống thực tế. Do đó, quan tâm đến việc củng cố và hoàn thiện cơ chế điều chỉnh của Luật Hành chính là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với hệ thống pháp luật nước ta trong giai đoạn hiện nay

Câu 7: Hệ thống ngành Luật Hành chính Việt Nam?

Trả lời

Gồm phần chung và phần riêng, trong mỗi phần có các chế định, trong mối chế định gồm các quy phạm vật chất và quy phạm thủ tục:

– Phần chung cua luật hành chính gồm các nhóm quy phạm quy định:

+ Những nguyên tắc cơ bản của quản lí hành chính nhà nước;

+ Địa vị pháp lí của các cơ quan hành chính nhà nước, hình thức và phương pháp quản lí cũng như văn bản quán lí;

+ Địa vị pháp lí của cán bộ, công chức và hoạt động công vụ;

+ Quy chế pháp lí hành chính của các tổ chức xã hội;

+ Quy chế pháp lí hành chính của cá nhân:

+ Trách nhiệm hành chính, thủ tục hành chính và tài phán hành chính;

+ Những biện pháp pháp lí bảo đảm pháp chế trong quán lí hành chính nhà nước:

– Phần riêng của luật hành chính gồm các nhóm quy phạm quy định:

+ Hoạt động quản lí chức nâng như tài chính, kế hoạch, đầu tư, thống k …

+ Hoạt động quản lí ngành như công nghiệp, nông nghiệp.

Câu 8: Vai trò của luật hành chính Việt Nam đối với hành chính hành chính nhà nước?

Trả lời

Luật hành chính Việt Nam là một ngành luật về quản lý nhà nước, đóng một vai trò hết sức quan trọng trong mọi mặt của đời sống xã hội. Cụ thể:

  1. Về phương diện chính trị:

– Tạo cơ sở vững chắc cho việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện bộ máy nhà nước, việc bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội;

– Góp phần quan trọng trong việc bảo vệ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

  1. Về phương diện kinh tế

– Ðóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân;

– Thúc đẩy các lĩnh vực kinh tế phát triển đồng bộ, nâng cao đời sống nhân dân.

  1. Về phương diện xã hội

– Tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của tập thể, của nhà nước;

– Hướng tới mục tiêu cao cả nhất của thể chế hành chính, đồng thời cũng là bản chất của chế độ XHCN là phục vụ cho nhân dân và “công bộc” của nhân dân.

Câu 9: Nguồn Luật Hành chính? Các loại nguồn, đặc điểm nguồn?

Nguồn của luật hành chính là các văn bản quy phạm pháp luật trong đó có chứa các quy phạm pháp luật hành chính.

Một văn bản được coi là nguồn của luật hành chính nếu văn bản đó thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu sau:

– Do chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật theo Luật định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật ban hành.

– Văn bản được ban hành theo đúng trình tự, thủ tục, dưới hình thức theo luật định. Nội dung văn bản đó có chứa đựng quy phạm pháp luật hành chính.

Các loại nguồn:

  • Hiến pháp;
  • Luật, Nghị quyết của Quốc hội;
  • Pháp lệnh, Nghị quyết của UBTVQH;
  • Lệnh, quyết định của CTN;
  • Nghị định của CP; quyết định của TTCP;
  • Nghị quyết của hội đồng thẩm phán TANDTC;
  • Thông tư của chánh án TANDTC ; thông tư của Viện trưởng VKSNDTC;
  • Thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ;
  • Quyết định của Tổng kiểm toán NN;
  • Nghị quyết liên tịch giữa UBTVQH or giữa CP với cơ quan TƯ của tổ chức CT- XH;
  • Thông tư liên tịch giữa Chánh án TANDTC với Viên trưởng viện KSNDTC, giữa bộ trưởng, thủ trưởng cq ngang bộ vs chánh án tòa tối cao, viện trưởng VKSTC; giữa các bộ trưởng thủ trưởng cơ quan ngang bộ;
  • VB QPPL của Hội đồng, UB ND(Nghị quyết của HĐND, Quyết định- Chỉ thị của UBND)   bộ trưởng only thông tư, chỉ thị đg có xu hg’ sửa đổi

Đặc điểm nguồn: nhiều, luôn thay đổi, đối tượng điều chỉnh rộng, khó pháp điển hóa. Vì qhxh nó điều chỉnh luôn thay đổi, phức tạp.

Câu 10: Mọi nghị định của CP có phải nguồn Luật Hành chính không?

Đúng.

Nghị định của Chính phủ có thể chia thành hai loại. Loại thứ nhất là nghị định quy định chi tiết thi hành luật, nghị quvết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ; các biện pháp cụ thể để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phú. Loại thứ hai là nghị định quy định những vấn đề hết sức cần thiết nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lí nhà nước, quản lí kinh tế, quản lí xã hội. Cả hai loại này đều là những quy phạm pháp luật trong quản lí hành chính nhà nước nên nó được coi là nguồn của pháp luật hành chính.

Câu 11: Khái niệm, nội dung, đặc điểm của quy phạm pháp luật hành chính?

* Khái niệm: Những quy phạm pháp luật được dùng để điều chỉnh các quan hệ quản lí hành chính nhà nước là các quy pham pháp luật hành chính. Do đó, có thể hiểu: Quy phạm pháp luật hành chính là một dạng cụ thể của quy phạm pháp luật, được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quán lí hành chính theo phương pháp mệnh lệnh – đơn phương.

Là một dạng cụ thể của quy phạm pháp luật nên các quy phạm pháp luật hành chính có đầy đủ các đặc điểm chung của quy phạm pháp luật như: Là quy tắc xử sự chung thể hiện ý chí cúa nhà nước; được nhà nước bảo đảm thực hiện; là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của con người về tính hợp pháp.

* Nội dung: điều chỉnh các quan hệ quản lý trước hết bằng cách đặt ra quyền và nghĩa vụ có quan hệ tương hỗ với nhau của các chủ thể luật HC trong các loại hoạt động, các môi trường quản lý khác nhau, các đặc trưng là điều chỉnh các quan hệ mang tính chất tổ chức và điều hành, cụ thể

– Xác định thẩm quvền quản lí hành chính nhà nước.

– Quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lí hành chính của đối tượng quản lí hành chính nhà nước.

– Quy định cơ cấu tổ chức, mối quan hệ công tác của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện quản lí hành chính nhà nước.

– Quy định thủ tục hành chính.

– Quy định vi phạm hành chính.

– Quy định các biện pháp khen thưởng và cưỡng chế hành chính.

* Đặc điểm

Ngoài ra, quy phạm pháp luật hành chính còn có những đặc điểm cụ thể sau:

– Thứ nhất, các QPPL hành chính chủ yếu do các cơ quan hành chính nhà nước ban hành.

Ở nước ta, theo quy định của pháp luật hiện hành thì các cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền ban hành quy phạm pháp luật hành chính có thể là chủ thể lập pháp hoặc chủ thể quản lý hành chính nhà nước.

Các QPPL hành chính chủ yếu do các cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành trên cơ sở, cụ thể hóa, chi tiết hóa các quy định của Hiến pháp, luật và pháp lệnh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước.

– Thứ hai, các QPPL hành chính có số lượng lớn và có hiệu lực pháp lý khác nhau.

Do phạm vi điều chỉnh của luật hành chính rất rộng và tính chất đa dạng về chủ thể ban hành, nên các QPPL hành chính có số lượng lớn. Trong đó có những quy phạm có hiệu lực pháp lý trên cả nước và chung cho các ngành, lĩnh vực quản lý, nhưng có những quy phạm chỉ có hiệu lực trong phạm vi một ngành, một lĩnh vực quản lý hay trong một địa phương nhất định.

– Thứ ba, các QPPL hành chính hợp thành một hệ thống trên cơ sở các nguyên tắc pháp lý nhất định.

Do yêu cầu điều chỉnh thống nhất pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước, các QPPL có số lượng lớn và hiệu lực khác nhau, song chúng cần phải hợp thành một hệ thống. Các chủ thể có thẩm quyền ban hành các quy phạm pháp luật hành chính có trách nhiệm tuân thủ các nguyên tắc pháp lý thống nhất sau đây:

+ Một là các QPPL hành chính do cơ quan nhà nước cấp dưới ban hành phải phù hợp với nội dung và mục đích của quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước cấp trên ban hành.

+ Hai là các QPPL hành chính do cơ quan hành chính nhà nước, Chủ tịch nước, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân ban hành phải phù hợp với nội dung và mục đích của quy phạm pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp ban hành. Các cơ quan hành chính nhà nước vơi tư cách là các cơ quan quyền lực nhà nước, khi ban hành các QPPL hành chính cần phải căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Mặt khác, các cơ quan quyền lực nhà nước có trách nhiệm và thẩm quyền trong việc giám sát, phát hiện và xử lý các văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước hay những cơ quan khác do mình quyết định thành lập và những người giữ chức vụ do mình bầu. Ví dụ: Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội.

+ Ba là các QPPL hành chính do cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn ban hành phải phù hợp với nội dung mà mục đích của quy phạm pháp luật do cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền ban hành.

+ Bốn là các QPPL hành chính do người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước ban hành phải phù hợp với nội dung và mục đích của quy phạm pháp luật do tập thể cơ quan đó ban hành.

+ Năm là bảo đảm tính thống nhất, phù hợp giữa các QPPL hành chính do các chủ thể có thẩm quyền ngang cấp, cùng địa vị pháp lý ban hành.

+ Sáu là các QPPL hành chính phải được ban hành theo đúng trình tự, thủ tục và dước hình thức nhất định do pháp luật quy định. Các QPPL hành chính phải được các cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền ban hành dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định thống nhất với từng loại hình văn bản quy phạm pháp luật cụ thể:

  • Xác định thẩm quyền quản lý hành chính nhà nước.
  • Quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính của đối tượng quản lý hành chính nhà nước.
  • Quy định cơ cấu tổ chức, mối quan hệ công tác của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện quản lý hành chính nhà nước.
  • Quy định thủ tục hành chính.
  • Quy định vi phạm hành chính.
  • Quy định các biện pháp khen thưởng và cưỡng chế hành chính.

Câu 12: Cơ cấu của quy phạm pháp luật hành chính?

Giả định + quy định + chế tài

– Giả định: + mang tính xác định tuyệt đối(công dân VN, 18 tuổi trở lên), tương đối(Ví dụ: tiêu chuẩn công chứng viên- từ 18+ , trung thành vs Tổ quốc) è tương đối: có những quy định không xác định được giá trị vật chất, thuộc tinh thần;

+ Giả định đơn giản, phức tạp- đơn giản: nếu 1 đk hoàn cảnh, phức tạp: nhiều

+ Giả định thường mang tính chất chung, k đi liền với quy định: quy phạm định nghĩa, quy phạm về các nguyên tắc.

– Quy định: đặt ra quy tắc hành vi, trình tự, thủ tục quy định các chủ thể được làm, phải làm ntn (quy định quyền và nghĩa vụ). Mang tính mệnh lệnh, là phần trọng tâm.

– Chế tài: biện pháp tác động của Nhà nước đối với chủ thể vi phạm phần quy định của quy phạm. thường k có mặt bên cạnh phần giả định và quy định mà nằm trong VB khác.

Câu 13: Phân loại quy phạm pháp luật hành chính?

Do tính chất đa dạng và phức tạp của các quy phạm pháp luật hành chính nên việc phân loại các quy phạm này có ý nghĩa quan trọng về lí luận và thực tiễn xây dựng cũng như áp dụng pháp luật trong quản lí hành chính nhà nước. Việc phân loại các quy phạm này có thể được thực hiện theo các tiêu chí cơ bản sau:

Căn cứ vào chủ thể ban hành

  • Quy phạm pháp luật hành chính do các cơ quan quyền lực nhà nước ban hành.
  • Quy phạm pháp luật hành chính do Chủ tịch nước ban hành.
  • Quy phạm pháp luật hành chính do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành.
  • Quy phạm pháp luật hành chính do Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành.

Căn cứ vào cách thức ban hành

+ Quy phạm pháp luật hành chính do một cơ quan hay người có thẩm quyền độc lập ban hành.

+ Quy phạm pháp luật hành chính liên tịch.

Căn cứ vào mối quan hệ được điều chỉnh

+ Quy phạm nội dung là loại quy phạm được ban hành để quy định nội dung quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ quản lí hành chính nhà nước. Các quy phạm này được ban hành chủ yếu để quy định về địa vị pháp lí hành chính của các chủ thể tham gia quan hệ quản lí hành chính nhà nước. Ví dụ: Quy định vể thẩm quyền xử lí vi phạm hành chính của chủ tịch uỷ ban nhân dân các cấp hay quy định về nghĩa vụ lao động công ích của công dân…

+ Quy phạm hình thức là loại quy phạm được ban hành để quy định những trình tự, thủ tục cần thiết mà các bên tham gia quan hệ quản lí hành chính nhà nước phải tuân theo khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình do các quy phạm pháp luật nội dung quy định. Ví dụ: Các quy phạm quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính, thủ lục giải quyết khiếu nại hành chính…

Căn cứ vào hiệu lực pháp lí về thời gian

+ Quy phạm áp dụng lâu dài là loại quy phạm mà trong văn bản hành chính không ghi thời hạn áp dụng. Ví dụ: Các quy phạm pháp luật hành chính trong Hiến pháp năm 1992 hay trong Luật thanh tra nãm 2004… Các quy phạm này chỉ hết hiệu lực khi bị bãi bỏ, thay thế. Các quy phạm này có số lượng rất lớn và có ý nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh lâu dài và ổn định các quan hệ phát sinh trong quản lí hành chính nhà nước.

+ Quy phạm áp dụng có thời hạn là loại quy phạm được ban hành để điều chỉnh các quan hệ quản lí hành chính nhà nước chỉ phát sinh trong những tình huống đặc biệt hay chỉ tổn tại trong khoảng thời gian nhất định.

Khi tình huống đó không còn hay hết thời hạn đó thì quy phạm hết hiệu lực (ví dụ: Nghị quyết của Chính phủ số 12/2000/NQ-CP ngàv 14/8/2000 về “Chính sách quốc gia phòng, chống tác hại của thuốc lá” trong giai đoạn 2000 – 2010).

+ Quy phạm tạm thời là loại quy phạm được ban hành để điều chỉnh một số loại quan hệ quản lí hành chính nhà nước trong một phạm vi, trong khoảng thời gian nhất định làm cơ sở tổng kết để ban hành chính thức nếu phù hợp..

Căn cứ vào hiệu lực pháp lí về không gian

+ Quy phạm có hiệu lực pháp lí trên phạm vi cả nước. Các quy phạm này do các cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành.

+ Quy phạm có hiệu lực pháp lí trên phạm vi từng địa phương nhất định. Các quy phạm này chủ yếu do các cơ quan nhà nước ở địa phương ban hành để đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các quan hệ quản lí hành chính nhà nước phù hợp với đặc thù của địa phương mình

Câu 14: Hiệu lực quy phạm pháp luật hành chính?

Hiệu lực pháp lí về thời gian

+ Quy phạm áp dụng lâu dài là loại quy phạm mà trong văn bản hành chính không ghi thời hạn áp dụng. Ví dụ: Các quy phạm pháp luật hành chính trong Hiến pháp năm 1992 hay trong Luật thanh tra nãm 2004… Các quy phạm này chỉ hết hiệu lực khi bị bãi bỏ, thay thế. Các quy phạm này có số lượng rất lớn và có ý nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh lâu dài và ổn định các quan hệ phát sinh trong quản lí hành chính nhà nước.

+ Quy phạm áp dụng có thời hạn là loại quy phạm được ban hành để điều chỉnh các quan hệ quản lí hành chính nhà nước chỉ phát sinh trong những tình huống đặc biệt hay chỉ tổn tại trong khoảng thời gian nhất định.

Khi tình huống đó không còn hay hết thời hạn đó thì quy phạm hết hiệu lực (ví dụ: Nghị quyết của Chính phủ số 12/2000/NQ-CP ngàv 14/8/2000 về “Chính sách quốc gia phòng, chống tác hại của thuốc lá” trong giai đoạn 2000 – 2010).

+ Quy phạm tạm thời là loại quy phạm được ban hành để điều chỉnh một số loại quan hệ quản lí hành chính nhà nước trong một phạm vi, trong khoảng thời gian nhất định làm cơ sở tổng kết để ban hành chính thức nếu phù hợp..

Hiệu lực pháp lí về không gian

  • Quy phạm có hiệu lực pháp lí trên phạm vi cả nước. Các quy phạm này do các cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành.
  • Quy phạm có hiệu lực pháp lí trên phạm vi từng địa phương nhất định. Các quy phạm này chủ yếu do các cơ quan nhà nước ở địa phương ban hành để đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các quan hệ quản lí hành chính nhà nước phù hợp với đặc thù của địa phương mình

Câu 15: Thực hiện quy phạm pháp luật hành chính?

Chấp hành quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam

Chấp hành quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam là việc các tổ chức, cá nhân thực hiện đúng những hành vi theo quy định của pháp luật hành chính Việt Nam hiện hành. Chấp hành quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam thường thể hiện ở các trường hợp sau:

  • Thực hiện đúng các hành vi mà quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam buộc phải thực hiện như, Luật Giao thông đường bộ quy định: Người điều khiển xe máy và ngồi trên xe máy phải đội mũ bảo hiểm. Thực hiện đúng hành vi này nghĩa là mỗi khi cá nhân điều khiển xe máy tham gia giao thông phải đội mũ bảo hiểm.
  • Không thực hiện những hành vi mà quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam ngăn cấm như, quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam tại Luật Giao thông đường bộ quy định cá nhân khi điều khiển phương tiện giao thông không được đi ngược chiều đường một chiều. Chấp hành quy phạm này mỗi cá nhân khi tham gia giao thông nhìn thấy biển báo đường ngược chiều thì không điều khiển phương tiện giao thông vào đường ấy.
  • Thực hiện các hành vi trong giới hạn mà các quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam quy định. Điều 29, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính sửa đối năm 2008 quy định chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xử phạt hành chính với mức phạt tiền tới 30 triệu đồng. Như vậy, chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện chỉ có thể ban hành quyết định xử phạt hành chính đối với cá nhân vi phạm hành chính có mức phạt tiền không quá 30 triệu đồng.

Áp dụng quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam

Áp dụng quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam là việc cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào các quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam hiện hành để giải quyết các công việc cụ thể phát sinh trong quản lý hành chính nhà nước.Hoạt động áp dụng quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam được thực hiện bởi nhiều chủ thể có thẩm quyền khác nhau. Do hệ quả của việc áp dụng quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam rất dễ xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức nếu chủ thể có thẩm quyền áp dụng không đúng quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam. Nên khi áp dụng các quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam cán bộ, công chức cần phải tuân thủ các yêu cầu sau:

Áp dụng quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam phải đúng mục đích và nội dung. Mục đích của quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam là ý nghĩa xã hội của việc áp dụng quy phạm pháp luật, còn nội dung của quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam là yêu cầu về tính pháp lý khi áp dụng quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam.

  • Áp dụng quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam phải được thực hiện bởi chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
  • Áp dụng quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam phải được thực hiện đúng thủ tục do pháp luật quy định.
  • Áp dụng quy phạm phạm pháp luật hành chính Việt Nam phải được thực hiện trong thời hạn, thời hiệu do pháp luật quy định.
  • Kết quả của hoạt động áp dụng quy phạm pháp luật hành chính Việt Nam phải được, trả lời, công khai, chính thức bằng văn bản (trừ trường hợp có quy định khác). Quy định này buộc các chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải thông báo tới người khiếu nại về việc thụ lý hay không thụ lý đơn khiếu nại bằng văn bản.

Nếu bạn muốn hiểu rõ hơn về Luật Hành chính và áp dụng các kiến thức này trong thực tiễn, hãy tham gia khóa học tìm hiểu Luật Hành chính online. Khóa học được thiết kế đặc biệt để cung cấp cho bạn kiến thức nền tảng về Luật Hành chính một cách ngắn gọn, súc tích và dễ hiểu. Với đội ngũ giảng viên giàu kinh nghiệm, bạn sẽ được hướng dẫn chi tiết qua các bài giảng, bài tập thực hành và có cơ hội tự tin trả lời các câu hỏi trắc nghiệm liên quan. Đăng ký ngay hôm nay để trang bị cho mình những kiến thức cần thiết và nâng cao năng lực trong lĩnh vực pháp luật!

Link đăng ký khoá học: https://study.phapche.edu.vn/khoa-hoc-tim-hieu-mon-luat-hanh-chinh-viet-nam?ref=lnpc

Mời bạn xem thêm:

Câu hỏi thường gặp:

Quy phạm thủ tục hành chính là gì. Ví dụ chứng minh vai trò QPTTHC?

Quy phạm thủ tục hành chính được hiểu là hệ thống các quy phạm được điều chỉnh các quan hệ xã hội trong quá trình thực hiện thủ tục hành chính làm phát sinh các quan hệ thủ tục hành chính. Quy phạm thủ tục hành chính quy định các nguyên tắc thủ tục, trình tự tiến hành, quyền của các bên tham gia thủ tục, các quyết định phù hợp với các loại thủ tục…

Chủ thể luật hành chính và chủ thể quan hệ pháp luật hành chính khác nhau ở điểm nào?

Chủ thể của Luật hành chính là các cá nhân, tổ chức có năng lực chủ thể pháp luật hành chính. Các cá nhân – chủ thể Luật hành chính là những công dân Việt Nam, người nước ngoài và người không có quốc tịch sinh sống, người học tập trên lãnh thổ Việt Nam. Các tổ chức là các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị hành chính sự nghiệp, đơn vị vũ trang…
Chủ thể pháp luật hành chính là những cá nhân, tổ chức có khả năng trở thành các bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính có những quyền và nghĩa vụ pháp lý trên cơ sở những quy phạm pháp luật hành chính. Quan hệ pháp luật hành chính là một loại quan hệ pháp luật, là hình thức thể hiện của quan hệ xã hội, có tính ý chí, do đó chủ thể của pháp luật hành chính chỉ là cá nhân hoặc tổ chức.
Chủ thể pháp luật hành chính được nhà nước trao cho năng lực chủ thể pháp luật hành chính, tức là khả năng trở thành chủ thể pháp luật hành chính, chủ thể quản lý pháp luật hành chính mà khả năng đó được nhà nước thừa nhận.
Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính là các cơ quan, tổ chức, cá nhân có năng lực chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính, mang quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật hành chính, mang quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật hành chính. Như vậy, điều kiện để các cơ quan, tổ chức, cá nhân trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính là cơ quan, tổ chức, cá nhân đó phải có năng lực chủ thể phù hợp với quan hệ pháp luật hành chính mà họ tham gia.

Đánh giá bài viết

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết liên quan

.
.
.
Sơ đồ bài viết