fbpx
Học viện đào tạo pháp chế ICA
Ví dụ về thừa kế có yếu tố nước ngoài

Thừa kế có yếu tố nước ngoài là một trong những điểm đáng chú ý trong việc điều chỉnh Bộ luật dân sự năm 2015. Điều này đánh dấu sự phát triển và tích hợp của Việt Nam trong quan hệ quốc tế cũng như sự thay đổi trong môi trường xã hội và kinh tế toàn cầu. Việc thừa kế qua biên giới quốc gia đang trở thành một vấn đề phổ biến và phức tạp hơn bao giờ hết, và do đó, việc điều chỉnh Bộ luật dân sự để thích nghi với những thách thức này là một bước quan trọng. Dưới đây là những Ví dụ về thừa kế có yếu tố nước ngoài mà Học viện đào tạo pháp chế biên soạn đến gửi đến quý bạn đọc

Căn cứ pháp lý

Bộ luật Dân sự năm 2015

Ví dụ về thừa kế có yếu tố nước ngoài số 1

Anh Nguyễn Văn B (40 tuổi) là một công dân Việt Nam, nhưng cuộc đời anh đã mang anh đến Úc từ khi anh mới 20 tuổi. Cùng với bố mẹ, anh đã chọn định cư tại đất nước mới này. Tại Úc, anh B đã xây dựng một cuộc sống ổn định và thành công. Một phần quan trọng của cuộc sống của anh ở Úc là căn chung cư mà anh mua và sở hữu.

Tuy nhiên, vào cuối năm 2020, gia đình của anh B phải đối mặt với mất mát to lớn khi bố mẹ anh qua đời. Sau sự ra đi của họ, anh B đã quyết định quay về Việt Nam cùng với vợ và hai con của anh. Không lâu sau, vào đầu năm 2021, khi thế giới đang chống chọi với đại dịch Covid-19, anh B đã bị mắc phải căn bệnh này và không thể chiến thắng được cuộc chiến. Sự ra đi đột ngột của anh B đã để lại một khoản di sản phía sau.

Khi dịch bệnh Covid-19 dần ổn định, người thân của anh B đã bắt đầu xem xét việc phân chia di sản thừa kế của anh B. Do anh B không để lại di chúc nào, theo quy định của pháp luật, tài sản của anh sẽ được phân chia giữa người thừa kế của anh. Tài sản này bao gồm một sổ tiết kiệm trị giá 2 tỷ đồng nằm trong một tài khoản tại Ngân hàng BIDV, một miếng đất tại quận Hoàn Kiếm tại Việt Nam và một căn chung cư tại Úc. Tài sản thừa kế của B sẽ được phân chia như thế nào?

Lời giải

Đối với tài sản gồm một miếng đất ở quận Hoàn Kiếm và sổ tiết kiệm trị giá 2 tỷ đồng của anh Nguyễn Văn B, việc phân chia sẽ tuân theo pháp luật Việt Nam về phân chia di sản. Trước tiên, cần xác định những đối tượng thuộc hàng thừa kế thứ nhất của anh B, bao gồm vợ và hai con. Phần di sản thừa kế sẽ được chia thành ba phần bằng nhau. Điều này đồng nghĩa rằng vợ và hai con của anh B sẽ được hưởng một phần tài sản bằng nhau, tương ứng với di sản mà anh B để lại.

Ví dụ về thừa kế có yếu tố nước ngoài

Còn đối với căn chung cư tại Úc, vì đây là bất động sản nằm trong lãnh thổ của nước Úc, việc phân chia di sản này sẽ tuân theo pháp luật của nước Úc. Việc này có thể đòi hỏi thủ tục và quy định pháp lý khác nhau so với Việt Nam. Do đó, người thừa kế của anh B cần tham khảo với luật sư hoặc chuyên gia pháp lý tại Úc để thực hiện việc phân chia này một cách hợp pháp và công bằng theo quy định của pháp luật Úc.

Việc này đặc thù tại từng quốc gia và yêu cầu sự hiểu biết về quy định pháp luật tại từng nơi để đảm bảo rằng quyền lợi của người thừa kế được bảo vệ và di sản được phân chia một cách công bằng.

Ví dụ về thừa kế có yếu tố nước ngoài số 2

Năm 1950, Ô A và bà B hình thành một đôi vợ chồng. Họ được phúc đám với hai người con gái tuyệt vời là chị X, sinh năm 1953, và chị Y, sinh năm 1954. Tuy nhiên, thời gian trôi qua và mâu thuẫn nảy sinh trong cuộc sống của Ô A và bà B. Năm 1959, Ô A bắt đầu một cuộc sống mới như vợ chồng với bà C. Họ có thêm hai người con, anh T, sinh năm 1960, và chị Q, sinh năm 1963.

Tháng 8 năm 1979, chị X kết hôn với K và họ có hai người con, M và N, sinh đôi. Tuy nhiên, vào năm 1990, trong một tai nạn thảm khốc, chị X đã tử vong. Ba năm sau đó, năm 1993, Ô A mắc phải một căn bệnh nghiêm trọng và qua đời. Trước khi ông ra đi, Ô A đã để lại một bản di chúc, trong đó ghi rõ ràng rằng anh T sẽ thừa hưởng toàn bộ tài sản mà ông để lại.

Tuy nhiên, chị Y không đồng ý với nội dung của bản di chúc này và đã đưa vụ việc ra tòa án, yêu cầu tòa án xem xét và chia lại di sản của bố mình. Sau quá trình điều tra, tòa án đã xác định tổng giá trị tài sản mà Ô A và bà B để lại là 500 triệu đồng. Xác định hàng thừa kế của ông A và chị X

Lời giải:

  • Theo dữ kiện, năm 1959, ông A chung sống như vợ chồng với bà C và việc này được pháp luật thừa nhận ông A và bà C là vợ chồng hợp pháp.
  • Năm 1990, chị X qua đời, và đề bài không nêu rõ giá trị tài sản của chị X, vì vậy, ta xem như giá trị tài sản này là 0.
  • Năm 1993, ông A qua đời và để lại di chúc, ấn định toàn bộ tài sản cho anh T. Tài sản của ông A và bà B được nêu rõ là 500.

Dựa trên các thông tin này, ta tính được giá trị tài sản của ông A là 500/2 = 250. Điều này chính là giá trị tài sản mà ông A có quyền quyết định.

Tài sản của anh T được hưởng là 250. Tuy nhiên theo quy định pháp luật thì những người sau đây được hưởng thừa kế gồm bà B và bà C mỗi người được hưởng 2/3 giá trị của một suất chia theo pháp luật.

Người được hưởng thừa kế chia theo pháp luật gồm bà B, bà C, anh T, Q, X, Y: 250/6=41,6

Như vậy bà B=bà C=2/3 (250/6)=27,7

Tài sản của anh T còn lại là 250-(27,7×2)=194,6

Các trường hợp còn lại không được hưởng vì X đã mất, Y, Q đã thành niên và không bị mất năng lực hành vi

Ví dụ về thừa kế có yếu tố nước ngoài số 3

A và B là một cặp vợ chồng hợp pháp, họ đã cùng nhau xây dựng một gia đình hạnh phúc và có hai người con chung, X và Y. Trong thời gian họ sống hạnh phúc bên nhau, họ đã tích luỹ được một khối tài sản đáng kể.

Khối tài sản này bao gồm một căn nhà có giá trị lên đến 1 tỷ 2 triệu đồng, là nơi chứng kiến những kỷ niệm đáng nhớ và là nơi ấp ủ những ước mơ của cả gia đình. Ngoài ra, họ cũng sở hữu 300 triệu đồng tiền mặt, tiền này có thể sử dụng cho những nhu cầu cấp thiết trong cuộc sống hàng ngày hoặc để đầu tư vào các dự án tương lai. Cuối cùng, họ còn sở hữu một chiếc xe ô tô trị giá 500 triệu đồng, là phương tiện tin cậy giúp họ di chuyển, thăm thân, và tạo thêm những kỷ niệm đáng nhớ cùng gia đình. Hãy xác định di sản của A?

Lời giải:

Để xác định di sản của A, chúng ta cần áp dụng các quy tắc quản lý tài sản và di sản trong trường hợp này.

  • Ban đầu, A và B là vợ chồng hợp pháp và có con chung X và Y. Tài sản của họ bao gồm:
    • Căn nhà trị giá 1 tỷ 2 triệu đồng.
    • 300 triệu đồng tiền mặt.
    • Chiếc xe ô tô trị giá 500 triệu đồng.
  • Trước hết, chúng ta tính tổng tài sản của A và B: Tổng tài sản của A và B = 1 tỷ 2 triệu + 300 triệu + 500 triệu = 2 tỷ 2 triệu đồng.
  • Di sản chung của vợ chồng A và B: Để xác định di sản chung của họ, chúng ta chia đôi tổng tài sản: Di sản chung của A và B = (2 tỷ 2 triệu) / 2 = 1 tỷ 1 triệu đồng.
  • Tiếp theo, chúng ta xác định di sản chung của A với C (nếu có) – với điều kiện A sống như vợ chồng với C. Trong trường hợp này, di sản chung của A và C bằng Y: Di sản chung của A và C = Y.
  • Bây giờ, nếu A qua đời, di sản của A sẽ bao gồm: Di sản của A = (Di sản chung của A và B + Di sản chung của A và C) / 2 Di sản của A = (1 tỷ 1 triệu + Y) / 2
  • Nếu có nghĩa vụ tài sản chưa trả, cần xác định xem nó thuộc về chung vợ chồng hay riêng của A. Nếu nó thuộc riêng của A, nó sẽ được trừ vào di sản thừa kế của A.

Câu hỏi thường gặp

Quy định pháp luật về thừa kế như thế nào?

Thừa kế được hiểu là sự dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống, tài sản để lại gọi là di sản.
Trong đó, thừa kế được chia thành 02 hình thức:
– Thừa kế theo di chúc: là việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống theo sự định đoạt của người đó khi họ còn sống (Điều 624 Bộ luật Dân sự 2015).
– Thừa kế theo pháp luật: là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định (Điều 649 Bộ luật Dân sự 2015).

Hàng thừa kế thứ nhất gồm những ai?

Theo Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015, người thừa kế theo pháp luật được quy định như sau:
– Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

5/5 - (1 bình chọn)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết liên quan

.
.
.
Sơ đồ bài viết