Sơ đồ bài viết
Ngày nay, do kinh tế – xã hội phát triển, giá trị đất đai ngày càng cao nên tình trạng tranh chấp, đặc biệt là tranh chấp thừa kế đất đai diễn ra khá phổ biến. Đây là căn nguyên của nhiều bi kịch gia đình. Đã có nhiều vụ án xuất phát từ mâu thuẫn thừa kế, anh em ruột thịt xích mích rồi chém giết nhau, để lại hậu quả đau lòng, hoang mang cho dư luận. Rất nhiều bạn sinh viên khi học về thừa kế mong muốn tìm hiểu các Tình huống tranh chấp đất đai thừa kế như thế nào? Do vậy bài viết dưới đây Học viện đào tạo pháp chế ICA sẽ cung cấp cho bạn đọc về tình huống tranh chấp đất đai thừa kế để bạn đọc tham khảo nhé
Tình huống tranh chấp đất đai thừa kế
Tình huống 1: Ngày 12/11/2021, Ông Nam đã lập 01 bản di chúc viết tay, trong ghi chúc ghi là để lại toàn bộ tài sản là mảnh đất 1000m2 của ông cho con trai là anh Tiến. Tuy nhiên, bản di chúc này chỉ viết để đấy không có công chứng và chứng thực. Đầu năm 2022, ông Nam mất, anh Bắc( anh trai) và chị Phương (chị gái) của anh Tiến đòi chia di sản, yêu cầu chia lại di sản do ông Nam để lại vì họ cho rằng bản di chúc do ông Nam lập ngày 12/11/2021 là giả không hợp pháp. Anh Tiến hỏi di chúc của bố anh lập nêu trên, không được công chứng và chứng thực thì có hợp pháp hay không?
Trả lời:
Căn cứ theo Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng”
Theo quy định trên, di chúc ông Nam được lập bằng văn bản viết tay, không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện:
– Ông Nam khi lập di chúc phải minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
– Nội dung của di chúc ông Nam lập thì không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật (Về hình thức của di chúc quy định Điều 627 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau: “Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng”).
Tình huống 2
Bà Xuân có chồng là ông Thanh và có 03 người con là Phát, Đạt, Công (đều đã trưởng thành và có khả năng lao động). Đầu năm 2021, bà Xuân chết do tai nạn giao thông. Sau đó, ông Thanh vẫn quản lý, sử dụng ngôi nhà và thửa đất với diện tích 600m2 là tài sản chung của hai ợ chồng. Cuối năm 2021, ông Thanh có đưa bà Hoa về nhà sinh sống như vợ, chồng . Nhưng cả ba anh Phát, Đạt, Công đều không đồng ý. Vì không muốn bà Hoa sinh sống, sử dụng trên ngôi nhà và thửa đất của mẹ để lại, ba người con có thỏa thuận với ông Thanh để phân chia di sản do bà Xuân để lại, nhưng ông Thanh không đồng ý. Ông cho rằng, bà Xuân chết toàn bộ di sản này là của ông. Hai bên xảy ra tranh chấp. Hỏi, quan điểm của ông Thanh về việc thừa kế di sản thừa kế của bà Xuân có đúng hay không?
Trả lời:
Khoản 1 Điều 650 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”.
Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại”
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”
Với tình huống nêu trên, di sản này là tài sản chung nên chia đôi của bà Xuân 1 nửa và ông Thanh 1 nửa. Phần di sản của bà Xuân vì không có di chúc nên chia theo pháp luật. Ban người con là anh Phát, Đạt, Công và ông Thanh cùng thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà Xuân, do đó sẽ được hưởng phần di sản do bà Xuân để lại là bằng nhau. Quan điểm của ông Thanh về việc ông sẽ là người được hưởng toàn bộ di sản của bà X là không đúng quy định của pháp luật.
Trên đây là tư vấn về nội dung “Tình huống tranh chấp đất đai thừa kế“. Hy vọng bài viết hữu ích với bạn đọc
Câu hỏi thường gặp
Theo khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP hướng dẫn như sau:
Đối với tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,… thì thủ tục hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi kiện vụ án.”
Do đó, tranh chấp đất đai liên quan đến thừa kế quyền sử dụng đất có thể bỏ qua bước hòa giải tại địa phương mà để khởi kiện vụ án ra tòa.
Mọi cá nhân, không phân biệt nam, nữ, tuổi tác, thành phần, tôn giáo, địa vị chính trị xã hội… đều có quyền để lại tài sản của mình cho người khác, cũng như quyền được hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Trường hợp thừa kế theo di chúc, tức là khi có di chúc của người chết để lại, khi đó việc phân chia di sản phải tuân theo ý nguyện của người lập di chúc đã ghi rõ trong di chúc; còn trường hợp thừa kế theo pháp luật, tức là người chết không có di chúc để lại thì việc phân chia di sản sẽ theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định