Sơ đồ bài viết
Thừa kế là quá trình dịch chuyển tài sản của người đã qua đời sang người còn sống, người được nhận tài sản được gọi là người thừa kế. Tài sản mà người đã qua đời để lại để lại gọi là di sản. Quá trình thừa kế thường xảy ra sau khi người chết để lại di sản không có di chúc hoặc có di chúc không rõ ràng. Di chúc là một tài liệu pháp lý mà người chết viết ra trước khi qua đời để xác định cách phân chia tài sản và phần thừa kế cho các người thừa kế. Dưới đây là một số tình huống hòa giải về thừa kế sinh viên thường gặp mà Học viện đào tạo pháp chế ICA sưu tầm gửi đến bạn đọc
Căn cứ pháp lý
Bộ luật Dân sự năm 2015
Tình huống hòa giải về thừa kế sinh số 1
Sau khi ông A mất đi mà không để lại di chúc, việc chia tài sản và di sản trở nên quan trọng để đảm bảo sự công bằng và hòa hợp trong gia đình. Trường hợp này, bà B muốn bán một nửa diện tích đất và chia cho người con gái một khoản tiền để giúp đỡ cuộc sống khó khăn của cô ấy. Tuy nhiên, người con trai lại không đồng ý với quyết định này và cho rằng con gái không có quyền hưởng di sản nếu đã lấy chồng.
Để giải quyết mâu thuẫn trong gia đình, bà B đã nhờ đến sự can thiệp của một hòa giải viên. Trong trường hợp này, hòa giải viên có thể giúp gia đình hiểu rõ và thực hiện đúng quy định pháp luật về thừa kế và di sản.
Lời giải
Theo Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015, người thừa kế theo pháp luật được xác định theo thứ tự ưu tiên. Hàng thừa kế thứ nhất bao gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ và con nuôi của người chết. Hàng thừa kế thứ hai bao gồm ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột và cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. Hàng thừa kế thứ ba bao gồm cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Vì ông A đã mất mà không để lại di chúc, nên những người thừa kế theo pháp luật bao gồm bà B (vợ của ông A), người con trai và người con gái. Do đó, cả người con trai và người con gái đều là người thừa kế hợp pháp và có quyền hưởng phần di sản của ông A.
Bà B có ý định bán một nửa diện tích đất để giúp đỡ người con gái, điều này là hoàn toàn hợp pháp và được quy định trong Điều 651 Bộ luật Dân sự. Việc chia diện tích đất và cấp cho người con gái một khoản tiền là một cách giải quyết công bằng và tốt nhất để giúp đỡ con gái trong hoàn cảnh khó khăn. Tuy người con trai có quan ngại về việc người con gái sẽ kết hôn và không có quyền hưởng di sản, nhưng việc này không ảnh hưởng đến quyền thừa kế hợp pháp của cô ấy khi ông A mất đi.
Vì vậy, hòa giải viên cần giải thích rõ cho người con trai và bà B về quy định của pháp luật về thừa kế và chia di sản, để đảm bảo hiểu rõ và công bằng cho cả hai con của bà B. Quyết định cuối cùng cần được đưa ra dựa trên luật pháp và sự đồng thuận của cả gia đình.
Tình huống hòa giải về thừa kế sinh số 2
Trường hợp sau khi ông A mất đi, bà B và các con đã mở di chúc của ông A và phát hiện rằng ông để lại di sản cho bà và hai người con trai, nhưng không để lại cho người con gái út. Lý do ông A đưa ra là con gái sau này lấy chồng là con người khác và còn nhỏ nên không thể quản lý tài sản của mình. Bà B muốn chia cho người con gái út một phần di sản của ông A để lại, nhưng hai người con trai lại không đồng ý.
Để giải quyết mâu thuẫn trong gia đình, bà B đã nhờ đến sự can thiệp của một hòa giải viên. Hòa giải viên có nhiệm vụ giúp gia đình đạt được sự thỏa thuận và hòa hợp trong việc chia tài sản và di sản của ông A.
Lời giải:
Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc như sau:
1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
2. Quy định tại khoản 1 Điều 644 nêu trên không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Như vậy, Hòa giải viên căn cứ vào Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc để thực hiện hòa giải. Theo quy định, con gái út là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, con chưa thành niên. Do đó, con gái út được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật. Bên cạnh đó, Hòa giải viên cần nêu lên những truyền thống đạo đức tốt đẹp của người Việt Nam về tình cảm gia đình.
Tình huống hòa giải về thừa kế sinh số 3
Trường hợp sau khi ông A mất, ông để lại di sản thừa kế gồm số tiền 200 triệu đồng và diện tích đất 200m2 cho hai con là anh K và chị Q. Do chị Q ở xa nên phần di sản này anh K đang quản lý. Sau 5 năm kể từ ngày ông A mất, chị Q yêu cầu chia di sản thừa kế, tuy nhiên, anh K không đồng ý vì cho rằng thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế đã hết, dẫn đến hai anh em cãi nhau gây mâu thuẫn trong gia đình.
Để giải quyết mâu thuẫn, chị Q đã nhờ đến sự can thiệp của một hòa giải viên
Lời giải:
Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về thời hiệu thừa kế như sau:
1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật Dân sự;
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản 1 nêu trên.
2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Như vậy, Hòa giải viên cần căn cứ vào Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 để giải thích cho anh K hiểu rõ quy định về thời hiệu thừa kế, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế (kể từ thời điểm người để lại di sản). Do ông A chết 5 năm nên thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế vẫn còn. Bên cạnh đó, Hòa giải viên cần nêu lên những truyền thống đạo đức tốt đẹp của người Việt Nam về tình cảm gia đình, tình cảm anh em.
Trên đây là “Tình huống hòa giải về thừa kế sinh viên thường gặp“. Hy vọng bài viết hữu ích với bạn đọc.
Câu hỏi thường gặp
Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015, người thừa kế theo pháp luật được quy định như sau:
– Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
– Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
– Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Việc xác định hàng thừa kế chỉ diễn ra khi thừa kế được tiến hành theo pháp luật, cụ thể trong các trường hợp quy định tại Điều 650 Bộ luật Dân sự 2015, bao gồm:
– Không có di chúc;
– Di chúc không hợp pháp;
– Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
– Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.