Sơ đồ bài viết
Khi nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển thì nhu cầu về nguồn nhân lực ngày một tăng cao. Ngoài cạnh tranh trên thị trường tiêu thụ và nguyên liệu, cạnh tranh trên thị trường lao động cũng là một vấn đề mà các công ty cần giải quyết. Các công ty luôn cần nguồn lao động ngắn hạn, dài hạn, bán thời gian, thời vụ,… để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh, tuy nhiên không phải lúc nào các công ty cũng tìm đủ nhân lực làm việc. Để giải quyết nhu cầu này, công ty cung ứng lao động là giải pháp tốt nhất cho các công ty đang cần nhân lực. Bạn đọc có thể tham khảo hợp đồng cung ứng nhân lực trong nước trong bài viết của Học viện đào tạo pháp chế ICA nhé!
Tải xuống mẫu hợp đồng cung ứng nhân lực trong nước
Quy định về hợp đồng cung ứng nhân lực trong nước
Chủ thể tham gia vào quan hệ cung ứng dịch vụ thương mại
Trong cung ứng dịch vụ thương mại có hai chủ thể là bên cung ứng dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ thương mại bắt buộc phải là thương nhân, có đăng ký kinh doanh để cung ứng dịch vụ thương mại theo quy định của pháp luật. Người dùng dịch vụ người bán có thể là người bán, có thể không phải là người bán và cần sử dụng dịch vụ người bán từ nhà cung cấp dịch vụ người bán hoặc đại lý người bán. Dịch vụ môi giới, mua bán hàng hóa chỉ yêu cầu bên ủy thác là bên môi giới phải là thương nhân, còn bên ủy thác và bên được giao dịch không được là thương nhân.
Bên thuê còn được gọi là khách hàng, khác với quan hệ mua bán. Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá thường được gọi là bên mua và bên bán. Thuật ngữ này thể hiện việc chuyển quyền sở hữu hàng hóa giữa hai bên, khi nghĩa vụ của người bán không chỉ là giao hàng mà còn gắn liền với nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu hàng hóa này cho người mua. Trong cung ứng dịch vụ, bản chất là một bên cung ứng dịch vụ nhưng không chuyển giao quyền sở hữu dịch vụ đó, bên kia sử dụng dịch vụ và có nghĩa vụ trả tiền.
Đối tượng
Đối tượng cụ thể là việc thực hiện các công việc theo yêu cầu của bên sử dụng dịch vụ như đại diện cho thương nhân, ủy thác mua bán hàng hóa, đại lý thương mại,… Bên cung cấp dịch vụ bằng phương tiện của mình phải thực hiện các công việc theo yêu cầu của bên sử dụng dịch vụ, người sử dụng dịch vụ nhận được những lợi ích của việc thực hiện dịch vụ. Đối tượng của hoạt động cung ứng dịch vụ là sản phẩm vô hình, không tồn tại dưới dạng vật chất nên rất khó xác định chất lượng dịch vụ bằng các chỉ tiêu lượng hóa. Ngoài ra, khác với hàng hóa hữu hình, dịch vụ là sản phẩm vô hình nên không thể lưu trữ, vì vậy khi mua bán hay cung ứng dịch vụ, người ta không cần lo lắng về địa điểm của dịch vụ do dịch vụ lưu trữ, bảo quản hay lưu trữ quan tâm. Điều quan trọng nhất là người mua và người bán dịch vụ phải mô tả thật kỹ về dịch vụ, xác định rõ những yêu cầu cụ thể mà các bên hướng tới khi mua bán dịch vụ và điều này đòi hỏi các bên phải hiểu rõ về dịch vụ.
Vì vậy, đối tượng của quan hệ cung ứng dịch vụ khác với đối tượng của quan hệ mua bán hàng hóa; vì quan hệ mua bán hàng hoá hướng tới đối tượng là hàng hoá hữu hình nhìn thấy được. Thị trường quan hệ cung ứng dịch vụ hướng đến hàng hóa vô hình hoặc có hoặc không thực hiện công việc nhất định.
Mục đích của các bên tham gia
Trong hoạt động cung ứng dịch vụ thương mại, mục đích của các bên tham gia quan hệ cung ứng không hoàn toàn giống nhau. Người sử dụng dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ đối với dịch vụ và hưởng những lợi ích nhất định; đáp ứng kỳ vọng khi đề xuất sử dụng dịch vụ dựa trên kết quả hoạt động của nhà cung cấp dịch vụ. Đối với các nhà cung cấp dịch vụ thương mại, mục tiêu chính của họ là thù lao hoặc lợi nhuận thu được từ việc thực hiện một công việc cụ thể.
Hướng dẫn soạn thảo hợp đồng cung ứng nhân lực trong nước
Khi soạn thảo, rà soát hợp đồng cung ứng nhân lực trong nước cần lưu ý những điều sau:
Là sự thỏa thuận giữa công ty hoặc tổ chức phi thương mại của Việt Nam với bên nước ngoài về các điều khoản và nghĩa vụ của các bên trong việc cung ứng và tiếp nhận người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Hợp đồng cung ứng lao động phải tuân thủ pháp luật Việt Nam và pháp luật nước sở tại.
Thời hạn làm việc có thể:
- Xác định thời hạn
- Không xác định thời hạn
Theo quy định của Bộ luật lao động 2012:
- Thời giờ làm việc bình thường là 08 giờ mỗi ngày và không quá 48 giờ mỗi tuần.
- Theo danh sách do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với Bộ Y tế tổng hợp, thời giờ làm việc đối với những người làm công việc đặc biệt nặng nhọc, nguy hiểm không được quá 06 giờ trong 01 ngày.
Theo quy định của Bộ luật lao động 2012:
- Tiền lương bao gồm các khoản tiền lương, các khoản bổ sung theo lương và các khoản bổ sung khác có liên quan đến công việc hoặc chức vụ.
- Lương của người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu do chính phủ quy định.
Câu hỏi thường gặp
Các chủ thể tham gia vào quan hệ cung ứng dịch vụ thương mại bao gồm bên cung cấp dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ.
Để cung cấp dịch vụ thương mại, người cung cấp dịch vụ phải là thương nhân và có đăng ký kinh doanh trong phạm vi quy định của pháp luật.
Người sử dụng dịch vụ thương mại có thể là người bán, nhưng không nhất thiết phải là người bán và phải sử dụng dịch vụ thương mại của người cung cấp dịch vụ.
Quan hệ cung ứng dịch vụ thương mại được xác lập dưới hình thức hợp đồng. Theo Luật Thương mại 2005, hợp đồng này được gọi là hợp đồng dịch vụ chứ không phải hợp đồng mua bán dịch vụ. Thỏa thuận cung cấp dịch vụ là một thỏa thuận trong đó một bên, được gọi là nhà cung cấp dịch vụ, có nghĩa vụ cung cấp dịch vụ cho một bên khác và nhận lại tiền thù lao. Người nhận dịch vụ gọi là khách hàng có nghĩa vụ trả phí cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận. Tùy thuộc vào loại dịch vụ thương mại được cung cấp, hợp đồng cung cấp dịch vụ thương mại có thể được giao kết bằng miệng, bằng văn bản hoặc bằng hành vi pháp lý cụ thể. Các quy định này phải được tuân theo đối với các loại hợp đồng cung cấp dịch vụ mà pháp luật quy định phải lập thành văn bản. Hợp đồng dịch vụ thương mại dưới mọi hình thức cũng là sự thỏa thuận giữa các bên về quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc thực hiện công việc nhất định.