Sơ đồ bài viết
Phương tiện tham gia giao thông ngày một tăng; cơ sở hạ tầng giao thông chưa đủ để đáp ứng, trong khi đó ý thức tham gia giao thông của nhiều cá nhân còn thấp kém khiến cho tai nạn giao thông trở thành một trong những vấn đề nhức nhối được quan tâm hiện nay, khi mà số vụ tai nạn giao thông vẫn cứ không ngừng tăng lên mỗi ngày, mặc dù nhà nước đã đặt ra các chế tài xử phạt nặng đối với người vi phạm. Song song với đó, khi gây ra tai nạn giao thông, những cá nhân này hoặc không biết, hoặc cố tình không biết và có xu hướng trốn tránh trách nhiệm trong việc thực hiện bồi thường cho bên thiệt hại, vì cho rằng mình không có lỗi hoặc cho đó là điều đương nhiên vì khi tham gia giao thông bị tai nạn là điều khó tránh khỏi nên không cần phải bồi thường thiệt hại. Vậy quan điểm này có đúng hay không? Pháp luật quy định về bồi thường thiệt hại khi gây tai nạn giao thông cho người khác như thế nào? Gây tai nạn giao thông không bồi thường có được không?
Gây tai nạn giao thông có bắt buộc phải bồi thường không?
Tại khoản 1 Điều 584 BLDS năm 2015: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác” và tại khoản 3 của Điều luật này quy định :”Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại…”.
Theo Điều 2 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP, đối với quy định nêu trên thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố sau đây
– Có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác;
– Có thiệt hại xảy ra là thiệt hại về vật chất, thiệt hại về tinh thần;
- Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất thực tế xác định được của chủ thể bị xâm phạm, bao gồm tổn thất về tài sản mà không khắc phục được; chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút do tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền và lợi ích hợp pháp khác bị xâm phạm.
- Thiệt hại về tinh thần là tổn thất tinh thần do bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, quyền và lợi ích nhân thân khác mà chủ thể bị xâm phạm hoặc người thân thích của họ phải chịu và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất đó.
– Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi xâm phạm. Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi xâm phạm và ngược lại hành vi xâm phạm là nguyên nhân gây ra thiệt hại
– Nếu tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại như sau:
+ Chủ sở hữu tài sản phải bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, trừ trường hợp người chiếm hữu tài sản đó phải chịu trách nhiệm bồi thường theo hướng dẫn tại điểm b khoản 2 Điều này.
- Chủ sở hữu tài sản được xác định tại thời điểm tài sản gây thiệt hại theo quy định của pháp luật. Trường hợp tài sản đang được giao dịch thì phải xác định thời điểm chuyển giao quyền sở hữu để xác định chủ sở hữu tài sản gây thiệt hại.
+ Người chiếm hữu mà không phải là chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại nếu đang nắm giữ, chi phối trực tiếp hoặc gián tiếp tài sản như chủ thể có quyền đối với tài sản tại thời điểm gây thiệt hại.
Như vậy, căn cứ theo quy định nêu trên thì nếu có thiệt hại thực tế xảy ra do lỗi của chủ thể gây thiệt hại thì đều có thể phải chịu trách nhiệm bồi thường cho chính thiệt hại mà mình gây ra. Do đó, nếu gây tai nạn giao thông cho người khác dẫn đến có thiệt hại xảy ra thì sẽ phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Gây tai nạn giao thông không phải bồi thường trong trường hợp nào?
Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 584 BLDS năm 2015: “Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”.
Theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 2 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP:
“ 3. Người gây thiệt hại, chủ sở hữu tài sản, người chiếm hữu tài sản không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
a) Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
Ví dụ 1: Nhà của A được xây dựng, đang sử dụng bình thường và không có dấu hiệu hư hỏng. Một cơn lốc xoáy bất chợt, không được dự báo trước đã cuốn mái nhà của A vào người đi đường gây thiệt hại. Trường hợp này là sự kiện bất khả kháng nên A không phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Ví dụ 2: Có thông tin bão, A đã tiến hành các biện pháp phòng chống bão theo hướng dẫn của cơ quan chức năng địa phương. Tuy nhiên, cơn bão quá mạnh đã làm tốc mái nhà của A và gây thiệt hại cho người đi đường. Trường hợp này là sự kiện bất khả kháng nên A không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
b) Lỗi hoàn toàn do người bị thiệt hại là toàn bộ thiệt hại xảy ra đều do lỗi của người bị thiệt hại, người gây thiệt hại không có lỗi.
Ví dụ: A lái xe ô tô (thuộc sở hữu của mình) theo đúng quy định của Luật Giao thông đường bộ, C lao vào xe ô tô của A đang đi trên đường để tự tử. Trường hợp này, A không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do lỗi hoàn toàn của C”.
Như vậy, căn cứ theo quy định nêu trên, nếu tai nạn giao thông xảy ra do sự kiện bất khả kháng hoặc do lỗi hoàn toàn của người bị thiệt hại thì người gây tai nạn giao thông sẽ không phải bồi thường cho bên bị thiệt hại.
Người mất năng lực hành vi dân sự gây tai nạn giao thông có phải bồi thường không?
Căn cứ theo Điều 586 BLDS năm 2015 quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân, theo đó, các đối tượng sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm các đối tượng sau:
– Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
– Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này.
- Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
– Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
Như vậy dựa theo quy định này, nếu người mất năng lực hành vi dân sự gây tai nạn giao thông dẫn đến thiệt hại cho người khác mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
Mời bạn xem thêm
Câu hỏi thường gặp
Theo quy định của BLDS năm 2015″
– Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này.
– Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
– Người chưa thành niên mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
Căn cứ theo quy định tại Điều 587 BLDS năm 2015, trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người; nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.