Bạn đang ôn tập môn Luật Hình sự và cần tổng hợp các câu hỏi nhận định môn Luật hình sự phần Các tội xâm phạm tính mạng sức khỏe nhân phẩm danh dự của con người? Bài viết này cung cấp hệ thống câu hỏi quan trọng, kèm phân tích chi tiết giúp bạn hiểu rõ bản chất pháp lý và áp dụng vào bài thi hiệu quả. Cùng khám phá ngay để nâng cao kiến thức và đạt điểm cao trong học tập!
Tham khảo trọn bộ bài giảng môn học Luật Hình sự: https://study.phapche.edu.vn/khoa-hoc-tim-hieu-mon-luat-hinh-su-1?ref=lnpc
Câu hỏi nhận định môn Luật hình sự phần Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người
1. Hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng người khác trái pháp luật không gây ra hậu quả chết người thì không cấu thành Tội giết người (Điều 123 BLHS).
=> Nhận định này Sai. Hành vi khách quan của Tội giết người là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác.
Tước đoạt tính mạng của người khác được hiểu là hành vi tác động trái pháp luật đến thân thể của người khác chứa đựng khả năng thực tế gây ra chết người.
Hậu quả của tội phạm là nạn nhân tử vong. Dấu hiệu này là cơ sở xác định thời điểm tội phạm hoàn thành. Nếu hành vi giết người đã đưa đến hậu quả nạn nhân bị tử vong thì tội phạm đã hoàn thành. Nếu nạn nhân chưa chết thì được coi là giết người chưa đạt.
Vậy nếu hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng người khác trái pháp luật không gây ra hậu quả chết người thì vẫn cấu thành Tội giết người (Điều 123 BLHS).
Còn động cơ đê hèn là dấu hiệu định khung tăng nặng của loại tội phạm này nó phản ánh anh mức độ nguy hiểm hơn cho xã hội của tội phạm tăng lên đáng kể.
Cơ sở pháp lý: điểm q khoản 1 Điều 123 BLHS.
3. Mọi hành vi cố ý tước bỏ tính mạng của người khác đều cấu thành Tội giết người theo Điều 123 BLHS.
=> Nhận định này Sai. Ta cần xem xét hành vi cố ý tước bỏ tính mạng của người khác có thể hiện được dấu hiệu là trái pháp luật hay không.
Vì trong một số ít trường hợp như làm chết người trong giới hạn phòng vệ chính đáng, trong phạm vi yêu cầu của tình thế cấp thiết, thi hành án tử hình thì không xem là hành vi tước đoạt tính mạng của người khác trái pháp luật. Cho nên những trường này sẽ không cấu thành Tội giết người.
Cơ sở pháp lý: Điều 123 BLHS.
4. “Giết phụ nữ mà biết là có thai” là trường hợp giết 02 người trở lên.
=> Nhận định này Sai. Đối tượng tác động của tội phạm liên quan đến con người phải là con người đang sống. Thời điểm bắt đầu sự sống của con người dưới góc độ pháp lý hình sự là kể từ lúc họ được sinh ra và tồn tại độc lập với người mẹ.
(thời điểm kết thúc sự sống của con người là thời điểm chết sinh học đã xãy ra – Trong y học phân biệt chết lâm sang và chết sinh học, dưới góc độ pháp lý hình sự, sự sống của con người kết thúc khi chết sinh học xãy ra. Pháp luật Hình sự bảo vệ con ngừoi trong suốt thời gian sự sống bắt đầu và chưa kết thúc).
Hành vi giết người mẹ làm chết thai nhi thì không phải là hành vi khác quan của Tội giết người
5. Tình tiết “giết 02 người trở lên” luôn đòi hỏi phải có hậu quả hai người chết trở lên.
=> Nhận định này Sai. Trả lời tương tự câu 1. Thêm *trường hợp người phạm tội có ý định giết nhiều người và đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng hậu quả chết người chưa xảy ra do những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội vẫn được coi là giết nhiều người.
Cơ sở pháp lý: điểm a khoản 1 Điều 123 BLHS.
6. Sử dụng điện trái phép làm chết người là hành vi chỉ cấu thành Tội vô ý làm chết người (Điều 128 BLHS).
=> Nhận định này Sai. Nếu người sử dụng điện mắc điện ở nơi có nhiều người qua lại (cho dù có làm biển báo hiệu), biết việc mắc điện trong trường hợp này là nguy hiểm đến tính mạng con người, nhưng cứ mắc hoặc có thái độ bỏ mặc cho hậu quả xảy ra và thực tế có người bị điện giật chết, thì người phạm tội bị xét xử về tội giết người.
Nếu người sử dụng điện mắc điện ở nơi họ tin rằng không có người qua lại, có sự canh gác cẩn thận, có biển báo nhưng hậu quả có người bị điện giật chết thì người phạm tội bị xét xử về tội vô ý làm chết người.
Cơ sở pháp lý: Điều 123, Điều 128 BLHS.
7. Hành vi giết trẻ em sinh ra trong vòng 7 ngày tuổi thì chỉ cấu thành Tội giết con mới đẻ (Điều 124 BLHS).
=> Nhận định này Sai. Vì Tội giết con mới đẻ có chủ thể phạm tội đặc biệt đó phải là người mẹ do ảnh huởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoạc trong hoàn cảnh đặc biệt mà giết con do mình đẻ ra trong vòng 07 ngày tuổi.
Cho nên các chủ thể khác giết trẻ em mới sinh ra trong vòng 07 ngày tuổi không cấu thành tội này mà sẽ phạm tội khác như: Tội giết người (Điều 123)
8. Mọi trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đều cấu thành Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125 BLHS).
=> Nhận định này Sai. Vì hành vi giết người trong tình trạng tinh thần của người phạm tội bị kích động mạnh. Tình trạng này thường phát sinh tức thời ngay sau khi có sự kích động và tồn tại trong thời gian ngắn.
Nguyên nhân dẫn đến trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là do hành vi trái pháp luật nghiệm trọng của nạn nhân. Hoặc tách riêng một chuỗi hành vi lặp đi lặp lại có tính chất áp bức tương đối nặng nề tạo sự kích động tâm lý âm ỉ trong một thời gian dài cho đến khi tinh thần của người bị kích thích bộc phá thành trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Vậy nếu trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nhưng nguyên nhân dẫn đến trạng thái tinh thần bị kích động mạnh không xuất phát từ hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân mà do một chủ thể thứ ba khác thì sẽ không phạm tội này.
9. Mọi hành vi làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép trong khi thi hành công vụ đều cấu thành Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 127 BLHS).
=> Nhận định này Sai. Động cơ vì thi hành công vụ là một dấu hiệu bắt buộc của Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 127 BLHS).
Nếu người thi hành công vụ do hống hách, coi thường tính mạng của người khác mà sử dụng vũ khí một cách bừa ẩu hoặc do tư thù cá nhân, thì câu thành tội phạm khác không áp dụng Điều 127 BLHS.
10. Không phải mọi hành vi vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp đều cấu thành Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp (Điều 129 BLHS).
=> Nhận định này Đúng. Vì trong một số lĩnh vực nghề nghiệp, hành vi vi phạm quy tắc nghề nghiệp làm chết người là hành vi khách quan của một số tội phạm khác như các tội xâm phạm an toàn công cộng trong lao động sản xuất (Điều 295); Trong lĩnh vực Y tế (Điều 315),v. v. .
11. Nạn nhân tử vong là dấu hiệu định tội của Tội bức tử (Điều 130 BLHS).
=> Nhận định này Sai. Vì Tội bức tử dấu hiệu khách quan chỉ cần có hành vi đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình. Hành vi cấu thành tội phạm khi có sự tự sát của nạn nhân bất kể sự tự sát có thành hay không. Nạn nhân tử vong không phải dấu hiệu định tội của tội phạm này.
12. Hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của chính họ thì cấu thành Tội bức tử (Điều 130 BLHS).
=> Nhận định này Sai. Hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của chính họ thì không cấu thành Tội bức tử mà đó là hành vi khách quan của Tội xúi giục người khác tự sát (Điều 131).
13. Cố ý tước đoạt tính mạng của người khác theo yêu cầu của người bị hại là hành vi cấu thành Tội giúp người khác tự sát (Điều 131 BLHS).
=> Nhận định này Sai. Hành vi khách quan Tội giúp người khác tự sát (Điều 131) là hành vi tạo ra những điều kiện về vật chất hoặc tinh thần để người khác sử dụng các điều kiện đó để tự sát.
Pháp luật Hình sự Việt Nam nghiêm cấm hành vi tước đoạt tính mạng của người khác mặc dù có làm theo yêu cầu của người bị hại. (vì lý do nhân đạo)
Cho nên hành vi Cố ý tước đoạt tính mạng của người khác theo yêu cầu của người bị hại sẽ quy vào Tội giết người (Điều 123).
14. Hành vi đối xử tàn ác đối với người bị lệ thuộc nếu không dẫn đến hậu quả nạn nhân tự sát thì không cấu thành tội phạm.
Giống câu 11
15. Dùng gạch đá tấn công trái phép người khác gây thương tích cho họ với tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% thì cấu thành Tội cố ý gây thương tích (Điều 134 BLHS).
=> Nhận định này Sai. Vì pháp luật hình sự quy định trường hợp gây thương tích cho người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% thì phải thuộc các trường hợp được quy định thì mới đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm này.
Cơ sở pháp lý: Điều 134 BLHS.
16. Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% thì không cấu thành Tội cố ý gây thương tích (Điều 134 BLHS).
=> Nhận định này Sai. Giống câu 15.
17. Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác không chỉ cấu thành Tội cố ý gây thương tích (Điều 134 BLHS).
=> Nhận định này Đúng. Nếu hành vi cố ý gây thương tích còn có thể là hành vi khách quan của các Tội khác như: Tội cố ý gây thương tích cho người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135); Tội cố ý gây thương tích cho người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 136)
18. Gây cố tật nhẹ được hiểu chỉ là trường hợp gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% nhưng đã làm mất một bộ phận cơ thể của nạn nhân.
=> Nhận định này Sai. Vì ngoài trường hợp làm mất một bộ phận cơ thể của nạn nhân thì còn có các trường hợp khác như: làm mất chức năng một bộ phận cơ thể của nạn nhân; làm giảm chức năng hoạt động của một bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc làm ảnh hưởng đến thẩm mỹ của nạn nhân.
Cơ sở pháp lý: NQ 02/2003 của HĐTP TAND Tối cao 17/04/2003 huớng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS.
19. Hành vi vô ý gây thương tích cho người khác không chỉ cấu thành Tội vô ý gây thương tích được quy định tại Điều 138 BLHS.
Tương tự câu 17.
20. Mọi trường hợp đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình đều cấu thành Tội hành hạ người khác được quy định tại Điều 140 BLHS.
=> Nhận định này Sai. Nếu trường hợp đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình thuộc các trường hợp quy định tại Điều 185 BLHS thì sẽ không cấu thành Tội hành hạ người khác.
21. Mọi hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ đều cấu thành Tội hiếp dâm (Điều 141 BLHS).
=> Nhận định này Sai. Nếu tội phạm thực hiện hành vi trên với nạn nhân là người dưới 16 tuổi họ sẽ phạm Tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
Cơ sở pháp lý: Điều 142 BLHS.
22. Mọi hành vi dùng thủ đoạn khiến người dưới 16 tuổi lệ thuộc mình phải miễn cưỡng giao cấu đều cấu thành Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 144 BLHS.
=> Nhận định này Sai. Nếu chủ thể thực hiện hành vi giao câu thuận tình với người dưới 16 tuổi chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi) thì không phải chủ thể của loại tội phạm này.
Nếu Điều 144 đối tượng là từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Còn trường hợp dưới 13 tuổi (cũng dưới 16 tuổi) mà Người phạm tội có hành vi như trên thì sẽ bị kết tội Điều 142 Hiếp dân người dưới 16 tuổi.
23. Mọi hành vi giao cấu thuận tình với người dưới 16 tuổi đều cấu thành Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145 BLHS).
=> Nhận định này Sai. Nếu chủ thể thực hiện hành vi giao câu thuận tình với người dưới 16 tuổi chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi) thì không phải chủ thể của loại tội phạm này.
Nếu Điều 145 đối tượng là từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Còn trường hợp dưới 13 tuổi (cũng dưới 16 tuổi) mà Người phạm tội có hành vi như trên thì sẽ bị kết tội tại điểm b khoản 1 Điều 142 Hiếp dân người dưới 16 tuổi. (Điều khoản này không nói là đồng thuận hay trái ý muốn của nạn nhân cả, thế nên cứ có hành vi giao cấu thì sẽ có tội).
24. Mọi trường hợp giao cấu trái pháp luật là giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân.
=> Nhận định này Sai. Vì có trường hợp: hành vi người đủ 18 tuổi giao cấu thuận tình với nạn nhân nhưng cũng là giao cấu trái pháp luật, đó là khi nạn nhân dưới 13 tuổi.
Cơ sở pháp lý: b khoản 1 Điều 142 BLHS.
25. Mọi trường hợp biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền bệnh cho người khác đều cấu thành Tội lây truyền HIV cho người khác (Điều 148 BLHS).
=> Nhận định này Sai. Pháp luật hình sự đã loại ra một trường hợp đó là nếu nạn nhân biết về tình trạng nhiễm HIV của người bị HIV và tự nguyện quan hệ tình dục thì người thực hiện hành vi trên sẽ không cấu thành tội phạm này.
26. Mọi hành vi mua bán người đều cấu thành Tội mua bán người (Điều 150 BLHS).
=> Nhận định này Sai. Pháp luật hình sự đã loại trừ đi một số trường hợp mà cha mẹ vì đông con hoặc vì khó khăn đặc biệt mà phải bán con mình (dưới hình thức cho làm con nuôi và nhận một số tiền giúp đỡ) cũng như trường hợp vì hiếm muộn mà mua chính người có con đem bán để về làm con nuôi thì không phạm tội.
Cơ sở pháp lý: NQ 04/HĐTP ngày 29/11/1986.
27. Hành vi bắt cóc người dưới 16 tuổi làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản thì cấu thành Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 153 BLHS.
=> Nhận định này Sai. Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 153 BLHS trong hành vi khách quan không có mục đích nhằm chiếm đọat tài sản. Cho nên Hành vi bắt cóc người dưới 16 tuổi làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản sẽ cấu thành Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi.
28. Mọi trường hợp bán con đẻ dưới 16 tuổi đều cấu thành Tội mua bán người dưới 16 tuổi theo Điều 151 BLHS.
=> Nhận định này Sai. Pháp luật hình sự đã loại trừ đi một số trường hợp mà cha mẹ vì đông con hoặc vì khó khăn đặc biệt mà phải bán con mình (dưới hình thức cho làm con nuôi và nhận một số tiền giúp đỡ) cũng như trường hợp vì hiếm muộn mà mua chính người có con đem bán để về làm con nuôi thì không phạm tội.
Cơ sở pháp lý: NQ 04/HĐTP ngày 29/11/1986.
29. Mọi hành vi bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt đều cấu thành Tội vu khống (Điều 156 BLHS).
=> Nhận định này Sai. Nếu hành vi bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt không nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác thì sẽ không là dấu hiệu khách quan của Tội Tội vu khống (Điều 156 BLHS).
30. Chỉ có nam giới mới là chủ thể của Tội hiếp dâm (Điều 141 BLHS) .
=> Nhận định này Sai. Điều 141 BLHS đã có quy định mở rộng hơn đó là. “người nào” không nói cụ thể là nam hay nữ dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi tình dục khác trái ý muốn với nạn nhân. “hiện hành vi tình dục khác” là không còn gói gọn trong giao cấu nữa rồi. Nên nữ giới hoặc người chuyển giới đều có thể là chủ thể của tội phạm này.
Thực tế thì nữ giới cũng có thể là chủ thể của Tội phạm này với vai trò là đồng phạm.
31. Hậu quả nạn nhân chết là dấu hiệu định tội của Tội vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124 BLHS).
=> Nhận định này Đúng. . Tội vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124 BLHS) có cấu thành vật chất. hậu quả nạn nhân bị tử vong đây là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm. Nếu hậu quả chết người này chưa xảy ra thì chưa cấu thành tội phạm.
32. Hành vi chiếm đoạt bộ phận cơ thể của người khác chỉ được quy định là tình tiết định khung của Tội giết người tại điểm h khoản 1 Điều 123 BLHS.
=> Nhận định này Sai.
Ngoài là tình tiết định khung của Tội giết người tại điểm h khoản 1 Điều 123 thì Hành vi chiếm đoạt bộ phận cơ thể của người khác còn là hành vi khách quan của Tội chiếm đoạt bộ phận cơ thể người quy định tại Điều 154 BLHS.
Cơ sở pháp lý: Điều 154 BLHS.
33. Hành vi bắt, giữ, giam người trái pháp luật mà làm nạn nhân chết thì không cấu thành Tội bắt, giữ, giam người trái pháp luật (Điều 157 BLHS).
=> Nhận định này Sai. Cần xét hành vi đối với cái chết của nạn nhân rồi mới có thể kết luận được.
Nếu chủ thể thực hiện hành vi cố ý tước đoạt trái phép tình mạng của nạn nhân thì không cấu thành Tội bắt, giữ, giam người trái pháp luật (Điều 157 BLHS) mà có thể là chuyển hoá qua các Tội phạm tương ứng: Tội giết người,…
Nếu chủ thể thực hiện hành vi bắt, giữ, giam người trái pháp luật vô ý với làm nạn nhân chết thì vẫn cấu thành Tội bắt, giữ, giam người trái pháp luật (Điều 157 BLHS) với tình tiết định khung làm người bị bắt, giữ, giam chết.
Cơ sở pháp lý: điểm a khoản 3 Điều 157 BLHS.
34. Hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật chỉ là hành vi của người không có thẩm quyền mà thực hiện việc bắt, giữ hoặc giam người.
=> Nhận định này Sai.
Cơ sở pháp lý: Điều 377 BLHS.
35. Hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật không chỉ là dấu hiệu định tội của Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 157 BLHS).
=> Nhận định này Đúng. .
Cơ sở pháp lý: Điều 377 BLHS.
36. Hành vi cưỡng bức, buộc người lao động đang làm việc ở các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, các doanh nghiệp phải thôi việc trái pháp luật, gây hậu quả nghiêm trọng thì cấu thành Tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật (Điều 162 BLHS).
=> Nhận định này Sai. Xác định động cơ phạm tội.
37. Đối tượng tác động của Tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật (Điều 162 BLHS) chỉ là công chức, viên chức hoặc người lao động của các cơ quan Nhà nước.
=> Nhận định này Sai. Đối tượng tác động của tội phạm này là người lao động, cán bộ, công chức làm việc trong các CQNN, tổ chức xã hội, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
38. Chủ thể của Tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 166 BLHS) phải là người có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
=> Nhận định này Sai. Đối với hành vi cố ý không chấp hành quyết định xét và quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo thì chủ thể lúc này không phải là người có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Đối với hành vi trả thù người khiếu nại tố cáo thì chủ thể là chủ thể thường.
39. Hành vi trả thù người khiếu nại, tố cáo là hành vi khách quan của Tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 166 BLHS).
=> Nhận định này Sai. Vì ngoài hành vi trên còn có các hành vi khác nữa.
40. Mọi hành vi cưỡng ép kết hôn đều cấu thành Tội cưỡng ép kết hôn được quy định tại Điều 181 BLHS.
=> Nhận định này Sai.
Vì chủ thể phải là người đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì mới cấu thành Tội này.
Mời bạn xem thêm: