fbpx
ICA - Học viện đào tạo pháp chế doanh nghiệp
Tổng hợp bài tập so sánh Luật hình sự phần 6

Bạn đang tìm kiếm bài tập so sánh Luật Hình sự phần 6 kèm hướng dẫn chi tiết? Bài viết này cung cấp tổng hợp bài tập thực tế, phân tích chuyên sâu và đối chiếu giữa các quy định trong Bộ luật Hình sự qua từng thời kỳ. Cùng khám phá những điểm khác biệt quan trọng và cách làm bài hiệu quả để nắm vững kiến thức pháp luật hình sự một cách chính xác nhất!

Tham khảo trọn bộ bài giảng môn học Luật Hình sự: https://study.phapche.edu.vn/khoa-hoc-tim-hieu-mon-luat-hinh-su-1?ref=lnpc

Tổng hợp bài tập so sánh Luật hình sự phần 6

Tình huống 16:

V là người buôn bán ma túy chuyên nghiệp đã thuê G với số tiền 500 nghìn đồng để G (15 tuổi) giúp vận chuyển số Heroin từ chợ về nhà V. Số Heroin được gói trong bọc quà sinh nhật. G đang mang từ chợ về nhà V thì bị công an bắt giữ. Lượng Heroin mà G vận chuyển nếu bị coi là tội phạm có thể được xử lí theo khoản 2 Điều 194 BLHS.

Câu hỏi:

Ông H là Bố của G đến hỏi: hành vi vận chuyển ma túy của G cho V có bị coi là tội phạm hay không? (2 điểm)
Hiện tại con tôi đang bị cơ quan Công an tạm giữ, vậy tôi phải làm gì để giúp con tôi sớm được về nhà? (2 điểm)
Tình huống bổ sung: Giả định V đã bị tạm giam về tội mua bán 2 bánh Heroin nhưng khi giám định thì số heroin đó hoàn toàn giả, ông F là bố của V đến tư vấn với câu hỏi “ V có bị truy tố về các tội liên quan đến ma túy” không? (2 điểm)

Lời giải:

1. Hành vi vận chuyển ma túy của G có bị coi là tội phạm hay không?

Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017):

  • Khoản 1: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
  • Khoản 2: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng thuộc danh mục quy định.

Căn cứ danh mục này, người từ 14 đến dưới 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, bao gồm cả tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250) nếu thuộc khoản 2 trở lên.

Trong tình huống này, G mới 15 tuổi, hành vi vận chuyển heroin nếu bị coi là tội phạm thì có thể bị xử lý theo khoản 2 Điều 250 BLHS 2015. Đây là tội phạm rất nghiêm trọng, đồng nghĩa với việc G phải chịu trách nhiệm hình sự.

Tuy nhiên, G có thể được hưởng chính sách khoan hồng đối với người chưa thành niên phạm tội, như miễn trách nhiệm hình sự nếu có căn cứ hoặc áp dụng biện pháp giáo dục thay thế.

2. Làm gì để giúp G sớm được về nhà?

Hiện tại, G đang bị tạm giữ bởi cơ quan Công an, do đó, ông H có thể thực hiện các biện pháp sau:

Yêu cầu bảo lĩnh:

Theo Điều 121 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, ông H có thể làm đơn xin bảo lĩnh cho G nếu đáp ứng các điều kiện sau:

  • Phải có ít nhất hai người thân thích đứng ra bảo lĩnh.
  • Người bảo lĩnh phải cam kết không để G tiếp tục phạm tội và đảm bảo G có mặt khi được triệu tập.

Thuê luật sư bào chữa:

Vì G là người dưới 16 tuổi, theo Điều 76 BLTTHS 2015, việc có luật sư bào chữa là bắt buộc. Ông H nên thuê luật sư hoặc đề nghị cơ quan tố tụng chỉ định luật sư để bảo vệ quyền lợi cho G.

Đề nghị miễn trách nhiệm hình sự:

Theo Điều 91 BLHS 2015 về xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội, nếu xét thấy G chỉ là người làm thuê, không nhận thức đầy đủ, ông H có thể đề nghị cơ quan tố tụng xem xét miễn trách nhiệm hình sự hoặc áp dụng biện pháp giáo dục tại cộng đồng thay vì xử lý hình sự.

Tình huống 17

1. Tóm tắt và phân tích hành vi của Lê Thị L

Lê Thị L, do ghen tuông với chồng là Phạm Văn K, đã lấy khẩu súng K54 (súng quân dụng K được giao khi làm nhiệm vụ) đến phục trước nhà trọ của Q – nơi K và Q hẹn gặp nhau. Khi thấy K đi cùng với Q và một tiếp viên khác là H, L dùng súng bắn K nhưng K chỉ bị thương. Sau đó, L tiếp tục bắn Q, nhưng không trúng Q mà lại bắn trúng H khiến H tử vong.

Tổng hợp bài tập so sánh Luật hình sự phần 6
Tổng hợp bài tập so sánh Luật hình sự phần 6

2. Xác định hướng xâm hại và quy phạm pháp luật hình sự cần kiểm tra

  • Hành vi của L đã xâm phạm quyền sống của con người.
  • Các quy phạm pháp luật hình sự cần kiểm tra gồm:
    • Điều 93 Bộ luật Hình sự (BLHS) 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) – Tội giết người.
    • Điều 18 BLHS – Phạm tội chưa đạt.
    • Điều 230 BLHS – Tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng.

3. Kiểm tra quy phạm pháp luật hình sự đã lựa chọn

Tội giết người (Điều 93 BLHS) và phạm tội chưa đạt (Điều 18 BLHS)

  • Khách thể của tội phạm: Quyền sống của con người. L đã trực tiếp xâm phạm quyền sống của K, Q, và H.
  • Mặt khách quan:
    • Hành vi của L là sử dụng súng quân dụng để bắn vào K và Q nhằm tước đoạt tính mạng của họ.
    • Hành vi này nguy hiểm, có khả năng trực tiếp gây chết người.
    • K bị thương, Q không bị trúng đạn, nhưng H bị bắn trúng và tử vong.
    • Cái chết của H là hậu quả của hành vi cố ý giết người chưa đạt.
  • Mặt chủ quan:
    • L có lỗi cố ý trực tiếp, mong muốn giết K và Q do ghen tuông.
    • Khi nổ súng, L nhận thức được hành vi của mình nguy hiểm nhưng vẫn thực hiện.
  • Chủ thể của tội phạm:
    • L là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm về tội giết người.

Kết luận: Hành vi của L cấu thành tội giết người chưa đạt, thuộc trường hợp giết nhiều người (điểm a khoản 1 Điều 93 BLHS).

Tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng (Điều 230 BLHS)

  • Khách thể bị xâm hại: Quy định của Nhà nước về an toàn công cộng liên quan đến quản lý vũ khí quân dụng.
  • Mặt khách quan:
    • L đã sử dụng khẩu súng quân dụng K54 trái phép.
    • Hành vi này đã gây ra hậu quả nghiêm trọng (gây thương tích cho K và làm chết H).
  • Mặt chủ quan:
    • L thực hiện hành vi với lỗi cố ý.
  • Chủ thể của tội phạm: L là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Kết luận: L phạm tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng theo điểm a khoản 2 Điều 230 BLHS.

4. Kết luận

Lê Thị L phạm hai tội:

  1. Tội giết người chưa đạt (điểm a khoản 1 Điều 93 và Điều 18 BLHS).
  2. Tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng (điểm a khoản 2 Điều 230 BLHS).

L sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo hai tội danh trên và chịu hình phạt tương ứng.

Tình huống 18:

Chiều ngày 11/6/2001 Phạm Văn D đi lang thang thấy một người đang sửa xe Cub 70 đời 82-89 ở ven đường nên đứng lại xem. Người chủ xe máy chữa xe mãi không được nên nhờ D chữa giúp. D nhận lời. Sau khi chữa xe xong, D ngồi lên xe khởi động máy, máy nổ. Lợi dụng chủ xe đang lúi húi buộc hành lý vào sau xe D đã cài số phóng xe đi thẳng. Ngày hôm sau D đem xe đến một cửa hàng cầm đồ để bán thì bị Công an hình sự bắt giữ. Chiếc xe máy được Cơ quan công an giao trả cho người chủ xe tên là Trần Quang B.

Qua đấu tranh khai thác, Cơ quan công an còn được biết đêm ngày 14/7/1995, lợi dụng mọi người trong gia đình nhà ông Lê Quốc L (ở làng lân cận) đi vắng, D đã dùng kìm cộng lực cắt khoá cửa vào nhà lấy chiếc xe Dream II ông L mới mua với giá 5 lượng vàng mang lên thành phố Hồ Chí Minh bán tiêu sài. Nhưng trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không phát hiện ra D là thủ phạm và trong thời gian từ đó cho đến khi bị bắt về vụ án ngày 11/6/2001 D vẫn làm ăn sinh sống bình thường ở nhà.

Hỏi: Hãy xác định trách nhiệm hình sự của D?

Lời giải

Để xác định trách nhiệm hình sự của Phạm Văn D theo Bộ luật Hình sự hiện hành (Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017), chúng ta cần xem xét hai hành vi phạm tội của D:

1. Hành vi trộm cắp tài sản ngày 14/7/1995:

  • Phân tích hành vi: D đã lợi dụng gia đình ông Lê Quốc L đi vắng, dùng kìm cộng lực cắt khóa cửa và lấy trộm chiếc xe Dream II trị giá 5 lượng vàng.
  • Áp dụng pháp luật: Tại thời điểm năm 1995, hành vi này cấu thành tội “Trộm cắp tài sản của công dân” theo Điều 155 Bộ luật Hình sự năm 1985. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3 Điều 7 và khoản 1 Điều 155 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), hành vi này được điều chỉnh bởi Điều 173 về tội “Trộm cắp tài sản”.
  • Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự: Theo khoản 2 Điều 27 Bộ luật Hình sự năm 2015, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm nghiêm trọng là 10 năm. Từ ngày 14/7/1995 đến ngày 11/6/2001 là gần 6 năm, do đó vẫn trong thời hiệu truy cứu. Tuy nhiên, từ năm 2001 đến nay đã hơn 20 năm, vượt quá thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Do đó, D không còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi này.

2. Hành vi chiếm đoạt tài sản ngày 11/6/2001:

  • Phân tích hành vi: D được nhờ sửa xe, sau khi sửa xong, lợi dụng lúc chủ xe không để ý, D đã khởi động và phóng xe đi, sau đó mang đi bán.
  • Áp dụng pháp luật: Hành vi này có thể cấu thành tội “Cướp giật tài sản” theo Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, với các dấu hiệu:
    • Khách thể: Xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác.
    • Mặt khách quan: Hành vi nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và tẩu thoát.
    • Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp với động cơ tư lợi.
    • Chủ thể: Người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
  • Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự: Theo khoản 2 Điều 27 Bộ luật Hình sự năm 2015, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm nghiêm trọng là 10 năm. Từ ngày 11/6/2001 đến nay đã hơn 20 năm, vượt quá thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Do đó, D không còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi này.

Mặc dù Phạm Văn D đã thực hiện hai hành vi phạm tội vào các năm 1995 và 2001, nhưng đến thời điểm hiện tại, cả hai hành vi này đều đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, D không phải chịu trách nhiệm hình sự về các hành vi này.

Mời bạn xem thêm:

Đánh giá bài viết

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết liên quan

.
.
.
Sơ đồ bài viết