Sơ đồ bài viết
Hợp đồng, với bản chất là một sự thỏa thuận giữa các bên trong một mối quan hệ, thể hiện một cách đa dạng và đa hình thức trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Điều này đặt ra một thách thức lớn trong việc quản lý và áp dụng các quy định pháp luật liên quan đến hợp đồng. Trong thực tế, hợp đồng không chỉ xuất hiện trong hình thức văn bản truyền thống mà còn có thể thể hiện qua giao dịch điện tử, lời hứa miệng, hay thậm chí chỉ dựa vào hành vi ưa thích và thể hiện của các bên. Pháp luật quy định về các điều kiện chọn luật trong quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài như thế nào?
Quy định về yếu tố nước ngoài trong hợp đồng như thế nào?
Thuật ngữ “yếu tố nước ngoài” là một khái niệm quan trọng trong lĩnh vực tư pháp quốc tế, được sử dụng để mô tả những thành phần quan trọng cấu thành quan hệ pháp luật mà chúng liên quan đến nước ngoài. Để hiểu rõ hơn, ta có thể chia những yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật thành ba khía cạnh quan trọng: Chủ thể, khách thể và nội dung của quan hệ pháp luật. Điều này có nghĩa là những yếu tố nước ngoài sẽ bao gồm:
Thứ nhất, “Chủ thể” của quan hệ pháp luật có liên quan đến nước ngoài, đây là các bên tham gia vào hợp đồng hoặc quan hệ pháp luật mà có ít nhất một bên là người hoặc tổ chức đến từ nước ngoài. Việc xác định chủ thể này thường đòi hỏi việc xác định quốc tịch hoặc trụ sở chính của họ, và điều này có thể có ảnh hưởng đáng kể đến quyền và nghĩa vụ của họ trong quan hệ pháp luật.
Thứ hai, “Khách thể” của quan hệ pháp luật có liên quan đến nước ngoài, chú trọng đến việc quy định mức độ liên quan giữa yếu tố nước ngoài và quan hệ pháp luật. Điều này có thể áp dụng đối với cả người và tổ chức, và mức độ liên quan này có thể ảnh hưởng đến việc áp dụng quy định pháp luật và các quyền lợi của bên có liên quan đến nước ngoài.
Thứ ba, “Nội dung” của quan hệ pháp luật có liên quan đến nước ngoài, đây là các điều khoản, điều kiện, và cam kết được thể hiện trong hợp đồng hoặc quan hệ pháp luật và có ảnh hưởng đến việc thực hiện và tuân thủ quy định pháp luật quốc tế.
Những yếu tố nước ngoài này thường góp phần làm cho việc quản lý và hiểu rõ các quan hệ pháp luật có liên quan đến nước ngoài trở nên phức tạp, và đòi hỏi sự chú ý đặc biệt đối với việc thực hiện và giải quyết tranh chấp, nhất là trong ngữ cảnh của tư pháp quốc tế.
Yếu tố nước ngoài trong tư pháp quốc tế
Theo quy định tại khoản 2 của Điều 663 trong Bộ luật Dân sự 2015, các yếu tố nước ngoài được xác định cụ thể nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
Về chủ thể: Trường hợp này xuất hiện khi ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân hoặc tổ chức pháp nhân của một quốc gia nước ngoài. Ví dụ cụ thể có thể là một công dân Việt Nam kết hôn với một công dân Hoa Kỳ hoặc một người Việt Nam mua hàng từ một công ty Thái Lan. Trong các tình huống này, yếu tố nước ngoài liên quan đến chủ thể của quan hệ pháp luật.
Về khách thể: Trường hợp này xảy ra khi tất cả các bên tham gia đều là công dân Việt Nam hoặc tổ chức pháp nhân Việt Nam, nhưng quan hệ pháp luật liên quan đến việc quản lý, sở hữu, hoặc tranh chấp đối tượng nằm ở nước ngoài. Ví dụ, một trường hợp tiêu biểu có thể là tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn đều là người Việt Nam về bất động sản tại nước ngoài. Ở đây, yếu tố nước ngoài liên quan đến khách thể của quan hệ pháp luật.
Về nội dung: Trường hợp này xuất hiện khi tất cả các bên tham gia đều là công dân Việt Nam hoặc tổ chức pháp nhân Việt Nam, nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài. Ví dụ, một tình huống cụ thể có thể là tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn người Việt Nam về việc thực hiện hợp đồng dịch vụ ở nước ngoài. Trong trường hợp này, yếu tố nước ngoài liên quan đến nội dung của quan hệ pháp luật.
Các điều kiện chọn luật trong quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài
Quyền tự do lựa chọn pháp luật áp dụng cho hợp đồng có yếu tố nước ngoài đóng một vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh quan hệ pháp luật trong hợp đồng có yếu tố quốc tế và là một chế định được thừa nhận rộng rãi trên toàn thế giới, thể hiện trong cả pháp luật của nhiều quốc gia và các hệ thống pháp luật quốc tế.
Theo Điều 664 của Bộ luật Dân sự 2015, quy định về xác định pháp luật áp dụng cho quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, pháp luật áp dụng cho quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định dựa trên điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc dựa trên luật Việt Nam. Nếu trong các điều ước quốc tế hoặc trong luật Việt Nam có quy định cho các bên có quyền lựa chọn pháp luật áp dụng, thì pháp luật áp dụng cho quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đó sẽ dựa vào thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, trong trường hợp không xác định được pháp luật áp dụng theo Điều 664, pháp luật áp dụng sẽ là pháp luật của quốc gia có mối liên hệ gắn bó mạnh mẽ nhất với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đó.
Bên cạnh đó, Điều 683 của Bộ luật Dân sự 2015 cung cấp quy định về việc các bên trong quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài có quyền tự do lựa chọn pháp luật áp dụng cho hợp đồng của họ, trừ một số trường hợp cụ thể như hợp đồng liên quan đến bất động sản hoặc các hợp đồng lao động và tiêu dùng ảnh hưởng đến quyền lợi tối thiểu của người lao động và người tiêu dùng. Điều này thể hiện sự cân nhắc của pháp luật trong việc bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia vào hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
Câu hỏi thường gặp
Theo quy định tại khoản 4 Điều 683 Bộ luật Dân sự 2015 về hợp đồng có yếu tố nước ngoài, trường hợp đối tượng của hợp đồng là bất động sản thì việc chuyển giao quyền sở hữu, quyền khác đối với bất động sản, thuê bất động sản hoặc việc sử dụng bất động sản phải áp dụng pháp luật của nước nơi có bất động sản. Ví dụ: Hợp đồng tranh chấp mảnh đất tại Việt Nam giữa nguyên đơn là người Việt Nam và bị đơn là người Hoa Kỳ thì hai bên phải lựa chọn pháp luật Việt Nam là pháp luật áp dụng.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 683 Bộ luật Dân sự 2015 về hợp đồng có yếu tố nước ngoài, trường hợp pháp luật áp dụng được các bên lựa chọn trong hợp đồng lao động hoặc hợp đồng tiêu dùng ảnh hưởng đến quyền lợi tối thiểu của người lao động, người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam thì pháp luật Việt Nam được áp dụng. Ví dụ: anh A (người nước ngoài) và công ty B (công ty nước ngoài ở Việt Nam) ký kết hợp đồng lao động tại Việt Nam, pháp luật áp dụng được cả 02 bên lựa chọn là pháp luật quốc gia của công ty B. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật nước này, quyền lợi tối thiểu của anh A bị ảnh hưởng so với quy định pháp luật Việt Nam thì pháp luật được áp dụng được thay thế bằng pháp luật Việt Nam.