Sơ đồ bài viết
Bài giảng môn học Luật so sánh chương I với nội dung về Dòng họ pháp luật châu Âu lục địa cung cấp kiến thức cơ bản về một trong những dòng họ pháp luật quan trọng nhất thế giới. Nội dung bài giảng giúp người học hiểu rõ khái niệm, đặc điểm nổi bật và lịch sử hình thành của dòng họ pháp luật này, đồng thời phân tích cấu trúc, nguồn luật và cách áp dụng luật tại các quốc gia thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa. Đây là nền tảng quan trọng để so sánh với các dòng họ pháp luật khác, phục vụ quá trình nghiên cứu và áp dụng pháp luật quốc tế hiệu quả.
Bài giảng môn học Luật so sánh chương II
Chương 2: Dòng họ pháp luật châu Âu lục địa
– Có 3 tên gọi:
+ dòng họ Civil law: dòng họ PL dân luật, dòng họ PL dân sự
Chú ý: mặc dù có thể “dịch nghĩa” của civil law là dân luật, hay dân sự, nhưng nếu sử dụng thuật ngữ “dòng họ PL dân luật / sự” thì dễ gây hiểu nhầm rằng dòng họ PL này chỉ có PL dân sự mà không có hình sự, không có hành chính, … ==> như vậy là sai về bản chất, vì thực tế dòng họ PL civil law chỉ coi trọng PL dân sự, ưu tiên pháp điển hóa PL dân sự trước, nhưng vẫn có đầy đủ PL hình sự, hành chính, ….
+ dòng họ PL châu Âu lục địa: vì ra đời đầu tiên ở các quốc gia thuộc châu Âu lục địa, sau đó lan rộng ra các quốc gia khác trên toàn thế giới
Chú ý: nói 1 quốc gia có hệ thống PL thuộc dòng họ PL châu Âu lục địa thì không có nghĩa quốc gia đó thuộc châu Âu lục địa
+ dòng họ PL thành văn: coi trọng pháp điển hóa PL (tức là PL thành văn) và trung tâm là PL dân sự, có nguồn gốc từ thời La Mã.
Chú ý: tên gọi này chủ yếu dùng để phân biệt với dòng họ PL common law (PL coi trọng án lệ)
– Chế định PL đặc thù: luật nghĩa vụ, gồm 3 nội dung:
+ hợp đồng
+ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
+ làm giàu bất chính
I. Sự hình thành và phát triển của dòng họ Civil law
– Có 2 giai đoạn:
+ dòng họ civil law hình thành và phát triển ở châu Âu lục địa
+ dòng họ civil law mở rộng sang các châu lục khác
1. Sự hình thành và phát triển của dòng họ civil law ở châu Âu lục địa
– Chia làm 3 giai đoạn:
+ giai đoạn trước thế kỷ 11
+ giai đoạn từ thế kỷ 11 – thế kỷ 18
+ giai đoạn từ cuối thế kỷ 18 – nay
a. Giai đoạn trước thế kỷ 11
– PL các nước châu Âu lục địa trước thế kỷ 11 là sự tồn tại của nhiều loại PL khác nhau. Có 3 loại chính:
+ PL thành văn: luật La Mã,
+ tập quán pháp: PL của các vùng, miền khác nhau
+ luật giáo hội: ra đời muộn hơn, xuất hiện vào thế kỷ 6, 7
– Thời kỳ này PL còn đơn giản, có sự khác biệt giữa 2 tiểu giai đoạn:
+ trước thế kỷ 7: gồm PL La Mã, tập quán địa phương
+ thế kỷ 7 – thế kỷ 10: tập quán địa phương, luật giáo hội (thời kỳ khủng hoảng toàn diện, gọi là “Đêm trường trung cổ” với sự thống trị của luật tôn giáo)
– Dòng họ civil law được cấu thành từ luật La Mã, tập quán địa phương, luật giáo hội, và tư tưởng về PL tự nhiên đã trải qua 1 quá trình phát triển lâu dài và phức tạp. Nhưng nền tảng chính tạo nên dòng họ civil law là luật La Mã.
* Về luật La Mã
– Có nhiều quan điểm về khái niệm luật La Mã:
+ là bộ tổng luật do Hoàng đế Justinian ban hành (gọi là Corpus Juris Civilis) (đây là thời kỳ thịnh vượng của đế quốc La Mã): đây là bộ tổng luật đồ sộ nhất trong hơn 1000 năm tồn tại của nhà nước La Mã, là tập hợp toàn bộ các quy định PL của nhà nước La Mã. Bộ tổng luật này không chỉ có hiệu lực trong thời hoàng đế Justinian mà vẫn có hiệu lực trong các triều đại về sau của nhà nước La Mã. Không những thế, bộ luật này có ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ các hệ thống PL của nhân loại, rất nhiều quy tắc pháp lý, rất nhiều quy định PL của các quốc gia sau này bắt nguồn từ bộ tổng luật này. ==> chính vì tầm ảnh hưởng quá lớn của Corpus Juris Civilis mà nhiều học giả đồng nhất luật La Mã với bộ tổng luật này.
+ là Corpus Juris Civilis và các biến tướng của Corpus Juris Civilis
+ là toàn bộ các bộ luật La Mã từ thế kỷ 5 trước CN đến thế kỷ 6, 7: tức là toàn bộ các sản phẩm PL của các triều đại La Mã. Chú ý: mặc dù nhà nước La Mã tồn tại đến tận thế kỷ 15, tuy nhiên kể từ thế kỷ 6, 7 thì nhà nước La Mã đã suy yếu rất nhiều và không còn đưa ra được sản phẩm lập pháp nào đáng chú ý nữa.
Nhận xét: cách hiểu 1 và 2 không chính xác. Cách hiểu thứ 3 mới được công nhận rộng rãi.
– Một số thành tố cơ bản của luật La Mã:
+ thuật ngữ “luật La Mã” được dùng để chỉ toàn bộ khối lượng PL La Mã được ban hành trong hơn 1 thiên niên kỷ (kéo dài từ năm 450 trước CN đến thế kỷ 6, 7)
+ 3 thành tố cơ bản của luật La Mã:
- Luật 12 bảng
- Tác phẩm Institutes của Gaias
- Corpus Juris Civilis
– Luật 12 bảng:
+ gọi là Luật 12 bảng vì sau khi ban hành, nhà nước La Mã đã khắc bộ luật này ra 12 tấm bảng và để ra nơi công cộng để người dân biết và tuân theo.
+ ra đời khoảng năm 451 – 449 trước CN, trong quá trình xây dựng Luật 12 bảng, các nhà lập pháp La Mã đã sử dụng luật so sánh. Vào thời điểm này thì nhà nước Hy Lạp láng giềng đã có hệ thống PL tương đối hoàn chỉnh với những hệ thống PL riêng của mỗi thành bang Hy Lạp (khoảng 50 thành bang), để học hỏi thì nhà nước La Mã đã thành lập Hội đồng pháp quan sang Hy Lạp học hỏi, những pháp quan này đã so sánh PL của mỗi thành bang Hy Lạp, đồng thời so sánh với tập quán La Mã để xây dựng nên những quy định PL phù hợp nhất.
+ đặc điểm:
- Chứa đựng nhiều tập quán la-tinh (tập quán của người La Mã cổ đại) và nhiều quy định giống PL Hy Lạp cổ đại
- Phạm vi điều chỉnh hẹp (luật 12 bảng có rất ít quy định cụ thể mà phần lớn là các quy định mang tính nguyên tắc, và chủ yếu chỉ quy định luật tư, cụ thể là luật dân sự) ==> sau khi ra đời, nhà nước La Mã vẫn phải sử dụng tập quán pháp để điều chỉnh các quan hệ xã hội
- Mặc dù ra đời rất sớm, luật 12 bảng bên cạnh 1 số quy định còn lạc hậu, mang đậm tính chất của xã hội chiếm hữu nô lệ, còn có rất nhiều quy định được đánh giá là rất tiến bộ, như quy định về thừa kế, quy định về thủ tục tố tụng, …
+ ý nghĩa: luật 12 bảng có ý nghĩa rất lớn không chỉ đối với nhà nước La Mã mà còn đối với nhân loại:
- Đây là bộ luật thành văn đầu tiên của nhà nước La Mã, góp phần xây dựng nên nhà nước La Mã thịnh vượng
- Từ thành công của Luật 12 bảng, nhà nước La Mã đã rất quan tâm đến PL thành văn, và các nhà nước ở châu Âu lục địa sau này kế thừa tư duy xây dựng PL thành văn
– Tác phẩm Institutes của Gaias (các thiết chế pháp luật của Gaias):
+ là 1 tác phẩm khoa học luật, ra đời từ thế kỷ 3 trước CN, đến thế kỷ 2 trước CN mới được phát hiện, đến nay vẫn chưa rõ tác giả
+ đây không phải là văn bản quy phạm PL, mà là 1 tác phẩm khoa học luật
+ được coi là 1 thành tố của luật La Mã do:
- Đây là cuốn sách đầu tiên tập hợp đầy đủ, thống nhất luật La Mã trước đó
- Không chỉ sao chép luật cổ mà còn phân tích, giải thích phạm vi áp dụng của các quy định, đồng thời hệ thống và phân chia các quy định thành các phần khác nhau ==> đây là nền tảng cho các chế định luật dân sự sau này:
- Nhóm quy định về người: làm tiền đề cho chế định địa vị pháp lý của cá nhân
- Nhóm quy định về vật: làm tiền đề cho chế độ sở hữu
- Nhóm quy định về hành động: làm tiền đề cho chế định hợp đồng, bồi thường dân sự ngoài hợp đồng
– Corpus Juris Civilis: tập hợp các chế định luật dân sự (hay Bộ tổng luật của hoàng đế Justinian)
+ hoàn cảnh ra đời: năm 476, đế quốc Tây La Mã sụp đổ, đế quốc Đông La Mã (gọi là Byzantine) tiếp quản:
- Đế quốc Byzantine không chỉ gìn giữ văn minh cổ đại mà còn bổ sung thêm vào đó các yếu tố phương Đông và phát triển rực rỡ, đặc biệt dưới thời hoàng đế Justinian I (527 – 565)
- Năm 528, hoàng đế Justinian I ra lệnh tập hợp, hệ thống hóa và củng cố, điểm chế hóa luật La Mã và tập hợp các chế định luật dân sự ==> Corpus Juris Civilis ra đời
+ Corpus Juris Civilis gồm 4 phần:
- Codex: là bộ được soạn thảo đầu tiên, chứa đựng những văn bản quy phạm PL do các Hoàng đế tiền nhiệm của Justinian ban hành. Khi biên soạn Codex, những học giả được quyền đánh giá xem những quy phạm PL đó có còn phù hợp với thời Justinian nữa hay không, nếu còn phù hợp thì đưa vào, nếu thấy không phù hợp thì chỉnh sửa cho phù hợp, nếu không thể chỉnh sửa được thì loại bỏ. Việc sắp xếp các văn bản quy phạm PL cũng rất khoa học: theo thứ tự thời gian ban hành văn bản, ở đầu mỗi văn bản đều ghi tên Hoàng đế ban hành và cuối văn bản ghi rõ thời điểm ban hành ==> rất dễ tra cứu
- Digesta: gồm 50 quyền, phải mất 3 năm (530 – 533) mới hoàn thành biên soạn, không chứa đựng quy phạm PL, mà chứa đựng những học thuyết pháp lý uyên thâm về khoa học luật (tập hợp hơn 2000 bài viết, công trình nghiên cứu chứa đựng những học thuyết của các học giả La Mã). Bộ Digesta rất trừu tượng, không dành cho dân thường đọc, mà dành cho người phải có trình độ luật học nhất định.
- Institutions: gồm 4 quyển, được soạn thảo đồng thời cùng với bộ Digesta, không chứa đựng các quy phạm PL, mà chứa đựng những kiến thức cơ bản về khoa học luật, dành cho người bắt đầu nghiên cứu khoa học luật ==> được coi là sách giáo khoa cho người học luật. Các nội dung trong Institutions được phân nhóm giống với việc phân nhóm trong Tác phẩm Institutes của Gaias.
- Novellae: được soạn thảo sau cùng, và hoàn thành sau khi Justinian qua đời, chứa đựng những quy định PL do chính Hoàng đế Justinian ban hành (122 văn bản) và một phần (khoảng 40 văn bản) những quy định do các hoàng đế kế nhiệm Justinian ban hành
Lưu ý: mặc dù trong Bộ tổng luật này, có phần chứa văn bản quy phạm PL, có phần chỉ chứa kiến thức về khoa học pháp lý, nhưng đối với người dân La Mã thì toàn bộ 4 phần của Corpus Juris Civilis đều mang ý nghĩa ràng buộc, tức là coi những kiến thức pháp lý là chuẩn mực và có giá trị giống như luật (do đó mới có tên gọi là Bộ tổng luật)
b. Giai đoạn từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 18
– Từ thế kỷ 11, nền kinh tế châu Âu lục địa bắt đầu hồi phục và đi vào ổn định, khoa học bắt đầu phát triển trở lại, trong đó có khoa học pháp lý. Cùng với sự phát triển của thương mại giữa các quốc gia ==> nhu cầu xây dựng PL để điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh ==> nhu cầu nghiên cứu PL phát triển, chủ yếu là nghiên cứu luật La Mã
– Xuất hiện 5 trường phái nghiên cứu luật La Mã:
+ trường phái các nhà bình chú (Glossators)
+ trường phái các nhà bình luận (Commentators)
+ trường phái nhân văn pháp lý (Legal Humanists)
+ trường phái các nhà pháp điển hiện đại (Pandectist)
+ trường phái pháp luật tự nhiên (Natural Law shool)
– Mỗi trường phái sử dụng phương pháp nghiên cứu khác nhau, đặt ra mục đích khác nhau ==> kết quả khác nhau và đóng góp cho PL châu Âu lục địa cũng khác nhau
* Trường phái các nhà bình chú (Glossators)
– Ra đời vào thế kỷ 11 ở Ý
– Những học giả đầu tiên là các giáo sư luật của trường đại học Bologna, Ý
– Lựa chọn nghiên cứu về Digesta của Corpus Juris Civilis
– Mục đích: làm cho Digesta dễ hiểu hơn, bằng cách đưa ra những lời bình chú vào Digesta
– Kết quả: đến thế kỷ 13, 1 học giả là Accurcius (1182-1236) tập hợp những lời bình chú này trong tác phẩm Great Gloss (Đại bình chú) có đến 96.000 lời chú giải về luật La Mã.
– Tại sao lại là Digesta ? Vì Digesta khó hiểu, nên các giáo sư luật muốn làm cho Digesta gần gũi, dễ hiểu hơn, dễ tiếp cận hơn đối với người dân thường
* Trường phái các nhà bình luận (Commentators)
– Ra đời vào thế kỷ 13 ở Ý
– Những học giả đầu tiên là các giáo sư luật của trường đại học Bologna, Ý
– Kế thừa phương pháp nghiên cứu của trường phái Glossators (nên còn được gọi là các nhà hậu – bình chú – Post Glossators), tuy nhiên hoạt động nghiên cứu của trường phái này không dập khuôn theo trường phái Glossators, thể hiện:
- Đối tượng nghiên cứu mở rộng hơn: Digesta và luật giáo hội (vì thời điểm này Nhà thờ đã can thiệp rất sâu vào hoạt động của nhà nước)
- Khai thác tính thực dụng của PL La Mã ở xã hội đương thời, tức là xem xét việc áp dụng PL La Mã vào tực tiễn châu Âu lúc bấy giờ (chứ không chỉ nghiên cứu mang tính lý thuyết như ở trường phái Glossators)
* Chú ý:
+ đóng góp lớn nhất của 2 trường phái nghiên cứu đầu tiên là góp phần cho việc hình thành và phát triển luật chung châu Âu lục địa (Jus Commune – chú ý: không phải là luật của liên minh Châu Âu hiện tại): thông qua việc nghiên cứu của mình, các học giả của 2 trường phái này đã hình thành nên 1 tư duy pháp lý, và vì là các giáo sư luật ==> truyền lại tư duy pháp lý của mình cho các thế hệ học viên sau (không chỉ là học viên Ý mà từ khắp châu Âu) ==> tư duy pháp lý lan tỏa khắp châu Âu lục địa
+ Jus Commune chỉ tồn tại ở châu Âu lục địa từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 16, là hệ tư duy pháp lý hình thành từ luật La Mã, luật giáo hội, được hầu hết các quốc gia ở châu Âu lục địa tiếp nhận nhưng thể hiện cụ thể linh hoạt ở từng nước (các quốc gia ở gần Ý tiếp nhận 1 cách dễ dàng, các quốc gia xa Ý, như các nước Bắc Âu, thì tầm ảnh hưởng hạn chế hơn)
+ Jus commune không giống luật Liên minh châu Âu – là các điều ước, hệ thống phán quyết của tòa công lý châu Âu.
* Trường phái nhân văn pháp lý (Legal Humanists)
– Ra đời ở Ý thế kỷ 15
– Sử dụng phương pháp lịch sử để nghiên cứu luật La Mã: tìm hiểu, giải thích bằng cách quay trở lại thời nhà nước La Mã còn tồn tại (tức là làm rõ những quy định PL La Mã bằng nghĩa gốc từ thời La Mã)
==> không gây ảnh hưởng nhiều đến hoạt động nghiên cứu PL ở châu Âu lục địa lúc bấy giờ. Vì nếu sử dụng thì không thể được vì điều kiện, hoàn cảnh của nhà nước La Mã rất khác với châu Âu thế kỷ 15.
* Trường phái các nhà pháp điển hiện đại (Pandectist)
– Ra đời ở Đức, thế kỷ 16
– Sử dụng phương pháp nghiên cứu hiện đại: nghiên cứu luật La Mã gắn với điều kiện thực tiễn lúc bấy giờ, tuy nhiên lại chỉ “gắn” với điều kiện, hoàn cảnh của nước Đức, chứ không phải của toàn châu Âu
==> kết quả nghiên cứu có ý nghĩa nhiều hơn đối với hệ thống PL Đức, không có ảnh hưởng lớn với châu Âu
* Trường phái pháp luật tự nhiên (Natural Law shool)
– Ra đời ở Hà Lan, Đức, thế kỷ 17 (muộn hơn so với các trường phái khác)
– Có đối tượng nghiên cứu và quan niệm khác nhất trong số 5 trường phái nghiên cứu PL: ngoài PL do nhà nước ban hành còn có PL tự nhiên.
Pháp luật tự nhiên: được coi là do đấng tối cao ban tặng, là bất khả xâm phạm
– Đóng góp:
+ kêu gọi chủ nghĩa dân tộc pháp lý: mỗi học giả luôn đặt lợi ích dân tộc mình về pháp lý lên trước tiên ==> áp dụng PL phù hợp với quốc gia mình, xây dựng PL riêng cho quốc gia mình
+ khởi xướng phong trào pháp điển hóa PL không chỉ ở Đức mà ở toàn châu Âu lục địa: tức là xây dựng PL thành văn (ngoài Đức, còn có rất nhiều nước pháp điển hóa PL thành công)
+ đặt nền móng cho việc xây dựng và phát triển các chế định PL thuộc lĩnh vực công pháp: đặc biệt đặt nền móng cho xây dựng các chế định quyền con người, quyền của cá nhân
c. Giai đoạn từ cuối thế kỷ 18 đến nay
– Ở châu Âu từ cuối thế kỷ 18 đến thế kỷ 19 là cuộc Đại pháp điển hóa PL:
+ bắt đầu với Bản tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789, đã đặt nền móng cho luật Hiến pháp của Pháp và của tất cả các quốc gia trên thế giới sau này.
+ nước Pháp đã pháp điển hóa thành khoảng 40 bộ luật, trong đó nổi bật là Bộ luật dân sự Napoleon 1804, Bộ luật TTDS 1806, Bộ luật thương mại 1807, Bộ luật TTHS 1808, Bộ luật hình sự 1810, …
+ nước Đức cũng đã pháp điển hóa những bộ luật quan trọng, như Bộ luật thương mại 1866, Bộ luật hình sự 1871, Bộ luật TTHS 1877, Bộ luật TTDS 1877, Bộ luật dân sự 1896, …
+ ảnh hưởng của cuộc Đại pháp điển này là rất lớn đối với các thuộc địa của Pháp, Đức, và của các quốc gia khác như Nhật, Hàn, Thái Lan, Hi Lạp, …
– So sánh cuộc pháp điển hóa này với các cuộc pháp điển hóa trước đó:
+ bộ tổng luật Corpus Juris Civilis của Hoàng đế Justinian cũng là pháp điển hóa quy mô lớn, nhưng nó vẫn chưa được coi là Đại pháp điển hóa PL, vì quy mô chỉ trong phạm vi La Mã, so với quy mô với châu Âu thì vẫn còn nhỏ bé. Về nội dung thì mới pháp điển hóa chủ yếu luật dân sự (luật tư), nếu có hình sự thì vẫn cho là luật tư vì bảo vệ con người.
+ còn cuộc Đại pháp điển hóa PL ở châu Âu thì việc pháp điển hóa PL diễn ra trên tất cả các lĩnh vực: dân sự, hình sự, hành chính, hành pháp, … và trên phạm vi rộng lớn (toàn bộ châu Âu)
– Tuy nhiên không phải tất cả các quốc gia đều thành công trong cuộc đại pháp điển hóa này, VD ở Phổ thì PL về ruộng đất đã không thể được pháp điển
– Nguyên nhân: để pháp điển hóa PL thành công:
+ phải ở quốc gia lớn
+ phải được thực hiện bởi nhà cầm quyền anh minh, coi trọng luật pháp (ở Phổ, nhà vua Phổ đã đặt quá nhiều lợi ích của nhà vua vào việc pháp điển ==> pháp điển thất bại)
– Ý nghĩa: đóng góp tích cực cho PL ở châu Âu lục địa: văn bản PL thành văn, tạo ra được đặc trưng riêng cho PL châu Âu lục địa, tạo ra được tiếng vang, hình mẫu cho các quốc gia trên thế giới
– Hạn chế: chính vì thành công quá lớn đó dẫn đến tạo ra tư duy không tích cực, tư duy quá tôn thờ PL thành văn, vì dù kỹ thuật lập pháp có cao đến đâu thì cũng vẫn sẽ có thiếu sót hay lỗ hổng khi cho rằng nguồn của PL chỉ có PL thành văn; ngoài ra việc coi thẩm phán chỉ là người áp dụng PL đã có sẵn đã làm mất đi sự sáng tạo, chủ động của thẩm phán. (khác hẳn với vai trò rất lớn của thẩm phán ở dòng họ common law)
2. Sự mở rộng của dòng họ civil law sang châu Âu lục địa
a. Lý do mở rộng
– Có 2 lý do: cưỡng bức, và tự nguyện
– Lý do cưỡng bức:
+ thông qua quá trình mở rộng thuộc địa của các cường quốc ở châu Âu ==> áp đặt hệ thống PL civil law cho thuộc địa
+ các quốc gia thuộc địa dù đã được giải phóng nhưng tư duy làm luật đã ăn sâu vào tiềm thức, nên đã xây dựng hệ thống PL giống với châu Âu lục địa. Điển hình là các quốc gia châu Phi, Nam Mỹ, Indonexia, …
+ VN dù từng là thuộc địa nhưng không rơi vào trường hợp này, vì sau khi giải phóng VN đi theo CNXH, chỉ vài năm sau giải phóng còn cho phép sử dụng 1 số điểm của luật châu Âu lục địa, và sau đó đã thay thế gần như toàn bộ. Về sau này (kể từ khi đổi mới) mới học hỏi từ tất cả các nước trên thế giới.
– Lý do tự nguyện:
+ tự nguyện học hỏi văn minh pháp lý ở châu Âu lục địa: vì coi châu Âu lục địa là mô hình lý tưởng
+ VD điển hình: Nhật Bản, hệ thống PL Nhật Bản thuộc nhóm hỗn hợp, chịu ảnh hưởng của civil law từ cuối thế kỷ 19, trong cuộc cải cách Minh trị, theo đó cải tổ toàn bộ hệ thống PL theo hệ thống PL của châu Âu lục địa, chủ yếu từ Đức ==> hệ thống PL của Nhật hoàn toàn mới (trước đó hệ thống PL của Nhật chịu ảnh hưởng từ Trung Quốc). Ví dụ như Hiến pháp, bộ luật dân sự của Nhật Bản học hỏi từ BLDS Đức (có tham khảo BLDS Pháp, Anh), dù được ban hành từ 1898 đến nay vẫn còn hiệu lực
+ VD các quốc gia Ả rập cũng có hệ thống PL là hỗn hợp luật hồi giáo và civil law, lý do không phải vì đã từng là thuộc địa, mà là trong quá trình giao thương với châu Âu, civil law dần ảnh hưởng sang (sự tương đồng trong hệ thống PL có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy giao thương giữa các quốc gia).
b. Quy mô mở rộng
– Châu Mỹ:
+ có sự khác biệt giữa Bắc Mỹ và Nam Mỹ
+ Bắc Mỹ đa phần là thuộc địa của Anh (chỉ có bang Lousiana, Quibek là thuộc địa của Pháp), đến nay: Mỹ, Canada theo dòng common law, tuy nhiên PL của bang Lousiana, Quibek vẫn theo civil law (bằng chứng là vẫn có BLDS đồ sộ như ở châu Âu lục địa)
+ Nam Mỹ chủ yếu là thuộc địa của Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha ==> đều theo civil law
– Châu Phi:
+ Bắc Phi: là thuộc địa của Pháp nên theo civil law, nhưng trước đó đã có luật hồi giáo ==> duy trì cả luật hồi giáo + civil law (hỗn hợp)
+ Trung Phi: chưa có nền pháp lý nào ==> theo civil law
+ Nam Phi: chịu sự ảnh hưởng của cả Anh và Pháp ==> hỗn hợp civil law và common law
– Châu Á:
+ hầu hết là hỗn hợp: như hỗn hợp giữa civil law với PL XHCN (Trung Quốc, VN), hỗn hợp giữa civil law với common law (Philippin), hỗn hợp civil law với truyền thống Á Đông (Nhật Bản)
+ riêng Indonexia là sự hỗn hợp của luật hồi giáo và civil law
II. Cấu trúc pháp luật của dòng họ Civil law
1. Cách phân chia pháp luật
– Nói chung, civil law đều chia thành công pháp và tư pháp. Đây là 1 đặc trưng của dòng họ civil law (các dòng họ PL khác không có)
(Ở VN thì chia thành các ngành luật, không có sự phân chia rõ ràng thành công pháp và tư pháp)
a. Nguồn gốc và mục đích phân chia công pháp – tư pháp
– Nguồn gốc: từ luật La Mã, quan niệm các quan hệ tư và quan hệ công không thể đặt trên cùng 1 bàn cân
– Mục đích: khác với luật La Mã là bỏ quan hệ công ra khỏi hệ thống PL, dòng họ civil law đã tách riêng quan hệ công ra khỏi quan hệ tư
Câu hỏi: Tại sao luật La Mã lại muốn loại bỏ quan hệ công ra khỏi hệ thống PL ?
Trả lời: Vì phạm vi áp dụng của luật công là chính quyền, tức là nếu ban hành thì sẽ ràng buộc chính mình ==> không muốn có những quy định ràng buộc chính mình
Câu hỏi: Tại sao civil law tách riêng quan hệ công ra khỏi quan hệ tư ?
Trả lời: Vì không thể gộp chung luật công và luật tư, hơn nữa là để xác định tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc cụ thể, trong các nước theo civil law tồn tại hệ thống tòa hành chính (giải quyết quan hệ công) và hệ thống tòa tư pháp (giải quyết quan hệ tư)
Chú ý: trong lịch sử, nước Anh cũng có giai đoạn phân chia thành công pháp và tư pháp, nhưng chỉ với mục đích để xác định được thủ tục tương ứng (và giai đoạn này cũng chỉ tồn tại rất ngắn)
b. Phân biệt công pháp và tư pháp
Công pháp | Tư pháp | |
Đối tượng điều chỉnh | Quan hệ giữa cơ quan nhà nước với nhau, quan hệ giữa cơ quan nhà nước với người dân | Quan hệ giữa người dân với nhau |
Mục đích | Bảo vệ lợi ích công | Bảo vệ lợi ích tư nhân |
Phương pháp điều chỉnh | Phương pháp mệnh lệnh | Phương pháp tự do thỏa thuận ý chí của các các bên tham gia |
Tính chất | Thể hiện tính bất bình đẳng giữa các chủ thể PL, trong đó cơ quan NN (hoặc người có thẩm quyền) thường ra các quyết định mang tính mệnh lệnh và bên chủ thể khác phải thi hành | Thể hiện sự bình đẳng của các chủ thể tham gia quan hệ PL |
Các ngành luật | Hiến pháp, Hành chính, Hình sự, Cán bộ công chức viên chức, … | Dân sự, Thương mại, Lao động, Hôn nhân gia đình, … |
Quy phạm PL | Thường mang tính tổng quát cao | Thường mang tính cụ thể, chi tiết |
Quá trình phát triển | Đến thế kỷ 17 mới phát triển (khi xuất hiện trường phái PL tự nhiên trong đó đề cao quyền con người, và cách mạng tư sản liên tiếp thành công) | Xuất hiện từ thời cổ đại (Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại) |
Câu hỏi: Vì sao chưa có quốc gia nào ban hành được bộ luật hành chính ở mức độ đồ sộ như BLDS ?
Trả lời: Vì đối tượng điều chỉnh của luật hành chính sẽ là quan hệ giữa cơ quan nhà nước với nhau, quan hệ giữa cơ quan nhà nước với người dân ==> tức là có liên quan mật thiết đến mô hình bộ máy nhà nước và hoạt động quản lý nhà nước, mặc dù hiện nay tình hình các quốc gia hầu hết có sự ổn định, tuy nhiên vẫn tiềm ẩn rất nhiều biến động, chưa thể có đươc sự ổn định giống như quan hệ tư ==> các quốc gia chưa thể ban hành được bộ luật hành chính giống như BLDS.
2. Quy phạm pháp luật và giải thích quy phạm pháp luật
– Quy phạm PL trong civil law:
+ nguồn: chủ yếu là PL thành văn (trong common law chủ yếu là án lệ)
+ chủ thể ban hành: nhà lập pháp (trong common law là thẩm phán)
+ tính chất:
- Là quy tắc xử sự chung cho nhiều chủ thể, nhiều tình huống (trong common law thì chỉ điều chỉnh mối quan hệ cụ thể, vì nằm trong bản án)
- Có tính dự liệu, khái quát cao ==> trừu tượng (trong common law thì chi tiết, cụ thể, vì nằm trong bản án) ==> cần phải có các văn bản hướng dẫn dưới luật để có thể được thi hành trong thực tế (do đó chỉ có thuật ngữ “giải thích PL thành văn”, chứ không có thuật ngữ “giải thích án lệ”)
– Việc giải thích PL là thẩm quyền của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, và Tòa án (trong đó chủ yếu thẩm quyền giải thích PL là của tòa án)
Ở VN thì việc giải thích PL được giao cho rất nhiều cơ quan: Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan của chính phủ, Tòa án, Viện kiểm sát
3. Điểm yếu trong công pháp
– Trong luật La Mã, công pháp không được chú trọng phát triển, mới chỉ có luật Hình sự, tuy nhiên ở chỉ ở khía cạnh trừng phạt người dân.
– Công pháp ở các nước thuộc dòng họ civil law có mức độ phát triển không đồng đều và có mức độ hoàn thiện thấp hơn tư pháp. Vì sao ? Vì:
+ vì tư pháp trong các nước thuộc dòng họ civil law phát triển dựa trên sự kế thừa luật La Mã, mà tư pháp của La Mã rất phát triển và đã đạt đến mức hoàn thiện, còn công pháp thì phải phát triển gần như từ đầu
+ công pháp phát triển dựa trên các quyền tự nhiên của con người, mà quyền con người mới chỉ bắt đầu được chú trọng nghiên cứu từ thế kỷ 17 ở Hà Lan ở trường pháp nghiên cứu PL tự nhiên. Mà quyền con người lại được quan niệm khác nhau ở mỗi quốc gia ==> công pháp có mức độ hoàn thiện khác nhau ở mỗi nước, VD ở Pháp có hệ thống công pháp hoàn thiện hơn so với các nước civil law khác.
III. Nguồn của các hệ thống PL thuộc dòng họ Civil law
– Nguồn sơ cấp: là nguồn đóng vai trò chính
+ luật thành văn
+ tập quán pháp
+ những nguyên tắc chung của PL
– Nguồn thứ cấp:
+ phán quyết của tòa án
+ các học thuyết pháp lý
Câu hỏi: Phân chia các nguồn thành sơ cấp, thứ cấp là dựa trên cơ sở nào ?
Trả lời: Nguồn luật được xác định là cơ sở để các thẩm phán dựa vào đó đưa ra phán quyết khi giải quyết vụ việc, mà có nguồn luật ==> dựa trên tính ràng buộc của các nguồn luật (thứ tự ưu tiên sử dụng) được các thẩm phán sử dụng trong giải quyết tranh chấp
1. Pháp luật thành văn
a. Quy phạm PL
– Quan niệm về quy phạm PL trong dòng họ civil law: quy phạm PL được coi là thành công khi nó được áp dụng để giải quyết vụ việc trong thực tế
– Tầm quan trọng của các quy phạm PL: sau cuộc Đại pháp điển rất thành công, các quốc gia thuộc dòng họ civil law đa tuyệt đối hóa, “thần thánh hóa” vai trò của PL thành văn, cho rằng chỉ cần sử dụng PL thành văn là đủ để giải quyết tất cả các vụ việc trong xã hội. Tuy nhiên, càng về sau thì phát phát sinh những vụ việc mà PL thành văn chưa kịp ban hành quy phạm PL để điều chỉnh ==> cần phải sử dụng đến tập quán, các nguyên tắc chung của PL, và thậm chí phải sử dụng đến cả các nguồn luật thứ cấp
Câu hỏi: Vì sao PL thành văn không thể giải quyết được tất cả các vấn đề phát sinh trong thực tế ?
Trả lời: Vì các quan hệ xã hội luôn phát sinh trước khi có PL thành văn điều chỉnh ==> cần phải sử dụng các nguồn luật khác để điều chỉnh
b. Hệ thống các văn bản PL
– Hiến pháp: thuộc về luật công trong dòng họ civil law, có vị trí, vai trò khác nhau tại mỗi quốc gia. Khi mới xuất hiện (thế kỷ 19), có quốc gia coi Hiến pháp là 1 đạo luật thông thường; có quốc gia coi hiến pháp là đạo luật có vị trí cao hơn các đạo luật khác.
Đến nay, hầu hết các quốc gia civil law đều coi Hiến pháp là luật gốc, có vị trí cao hơn các luật thông thường ==> phải có cơ chế bảo hiến. Chú ý: bảo hiến chỉ đặt ra ở quốc gia coi Hiến pháp có vị trí cao hơn các dạo luật thông thường; còn ở những quốc gia không có hiến pháp, hoặc coi hiến pháp có vị trí như các đạo luật thông thường thì sẽ không đặt ra vấn đề bảo hiến).
Có 2 kiểu cơ chế bảo hiến:
+ lập riêng 1 cơ quan để bảo vệ hiến pháp ==> gọi là bảo hiến tập trung. VD Tòa án hiến pháp (Đức), Hội đồng bảo hiến (Pháp)
+ trao cho 1 số cơ quan quyền bảo vệ hiến pháp ==> bảo hiến phi tập trung. VD trao việc bảo vệ hiến pháp cho toàn bộ hệ thống tòa án (Mỹ)
+ ở VN thì bảo hiến được thực hiện nửa tập trung và nửa phi tập trung: thường vụ Quốc hội xem xét tính hợp hiến của các văn bản PL, ngoài ra còn có các Cục trong các Bộ cũng có chức năng kiểm tra tính hợp hiến của văn bản PL, thậm chí cơ quan báo chí cũng có quyền “tuýt còi” văn bản PL vi hiến.
– Điều ước quốc tế:
+ hầu hết các nước civil law đều đặt điều ước quốc tế ở vị trí thấp hơn hiến pháp nhưng cao hơn các đạo luật khác
+ nếu mâu thuẫn với Hiến pháp: thực hiện bảo lưu điều ước quốc tế (tức là không thực hiện ĐƯQT), nếu không thể bảo lưu thì không tham gia ĐƯQT đó
+ nếu mâu thuẫn với luật quốc gia: sẽ thực hiện sửa đổi luật quốc gia
– Luật, bộ luật (Chú ý: về giá trị pháp lý thì Luật và Bộ luật là 1, nhưng thông thường phạm vi điều chỉnh của Bộ luật là lớn hơn so với Luật; Bộ luật thường điều chỉnh nhiều quan hệ xã hội, VD Bộ luật dân sự, còn Luật thường điều chỉnh 1 quan hệ xã hội VD Luật hôn nhân gia đình, Luật lao động)
– Các loại văn bản PL khác: nghị định, thông tư. Chú ý: trên thế giới không có khái niệm “văn bản dưới luật” (under law), mà dùng khái niệm Văn bản ủy quyền (luật là do Quốc hội / Nghị viện xây dựng và ban hành, nhưng có những vấn đề cần chi tiết, cần chuyên môn sâu thì phải chuyển cho bộ, ngành chuyên môn thực hiện ==> gọi là văn bản ủy quyền)
2. Tập quán pháp
– Mức độ áp dụng tập quán pháp khác nhau giữa các nước: ví dụ
+ Pháp: coi tập quán pháp là lỗi thời nên phạm vi áp dụng rất hạn chế, thường chỉ được sử dụng khi có sự dẫn chiếu; hoặc 1 số trường hợp tập quán pháp được áp dụng đương nhiên (có thể trái PL)
+ Tây Ban Nha: nếu vấn đề nào đó đã có trong tập quán pháp thì sẽ không được quy định trong luật dân sự
+ Đức: coi trọng tập quán pháp
– Vai trò của tập quán pháp: thông thường không vượt quá vai trò của PL thành văn (tức là chỉ sử dụng tập quán pháp khi PL thành văn không quy định), trừ các trường hợp đặc biệt (là các trường hợp PL chủ động không ban hành quy phạm PL điều chỉnh, mà yêu cầu sử dụng tập quán pháp để điều chỉnh)
3. Các nguyên tắc chung của PL
– Khái niệm: nguyên tắc chung của PL là những nguyên tắc pháp lý (có thể thành văn hoặc không thành văn) được chấp nhận trong luật quốc gia của hầu hết các nước
– Nguồn gốc: Các nguyên tắc chung của PL có thể nằm ở bất kỳ đâu: trong văn bản PL quốc gia, điều ước quốc tế, tập quán, phán quyết của tòa án, học thuyết pháp lý, … miễn là nó được thừa nhận và được áp dụng rộng rãi.
– Các nguyên tắc chung của PL có sự ổn định nhất định. Một số nguyên tắc được áp dụng phổ biến trong hầu hết các hệ thống PL trên thế giới, VD nguyên tắc 1 hành vi phạm tội không bị xét xử 2 lần, 1 vi phạm hành chính không được xử phạt 2 lần, nguyên tắc 1 người chỉ coi là có tội khi có bản án có hiệu lực của tòa án, nguyên tắc ai khẳng định người đó phải chứng minh, nguyên tắc không ai bị bắt buộc phải kết tội chính mình, …
4. Phán quyết của tòa án
– Về phương diện lý thuyết, các hệ thống PL thuộc dòng họ civil law không thừa nhận học thuyết Stare Decisis (nguyên tắc tiền lệ pháp)
– Trên thực tế, đây vẫn là 1 nguồn luật bổ sung hữu hiệu và được áp dụng rộng rãi, tuy nhiên vẫn có nhiều giới hạn về áp dụng tiền lệ pháp (so với các nước thuộc dòng họ Common law)
Chú ý: ở VN, nghị quyết của Hội đồng thẩm phán cũng nhằm để giải thích việc áp dụng PL, cũng có vai trò gần giống như “án lệ”
– Trong quá khứ, các học thuyết pháp lý đã từng là nguồn chính của các hệ thống PL ở châu Âu lục địa
– Lý do coi học thuyết pháp lý là nguồn luật:
+ các học thuyết sáng tạo ra các thuật ngữ pháp lý và những ý tưởng mà các nhà làm luật sử dụng
+ các học thuyết tạo ra phương pháp mà nhờ đó luật được hiểu và được giải thích
– Vai trò của các học thuyết pháp lý tại các nước civil law hiện nay: rất mờ nhạt
IV. Hệ thống pháp luật một số nước thuộc dòng họ civil law
a. Sơ lược quá trình phát triển hệ thống PL Pháp
– Bối cảnh lịch sử:
+ trước năm 1789 (trước cách mạng tư sản Pháp): hệ thống PL Pháp là hỗn hợp của luật La Mã, tập quán Giec-manh, tập quán địa phương, PL thành văn, luật giáo hội, tập quán thương mại
+ sau năm 1789: thực hiện pháp điển hóa để thống nhất PL trên toàn nước Pháp. Thành quả lớn nhất là ra đời Bộ luật dân sự Napoleon 1804 (đến nay vẫn còn hiệu lực)
– Hoàn cảnh ra đời Bộ luật dân sự Napoleon 1804: được các các nhà thực hành luật (3 thẩm phán + 1 luật sư) soạn thảo từ năm 1800, có hiệu lực từ 1804.
– Đặc điểm của Bộ luật dân sự Napoleon 1804:
+ gắn liền với tên tuổi của Napoleon Bonaparte
+ có tính ổn định và hiệu lực lâu dài: có khoảng hơn 2000 điều, đến nay vẫn còn hơn 1000 điều còn hiệu lực
+ đánh dấu sự phát triển của kỹ thuật lập pháp rất cao: logic, ngôn ngữ dễ hiểu, gần gũi, quy phạm PL chi tiết nhưng mềm dẻo, linh hoạt
+ chứa đựng 1 số quy định lạc hậu ngay từ khi ban hành. VD coi người phụ nữ khi lấy chồng thì bị coi là mất năng lực hành vi dân sự ; con ngoài giá thú bị hạn chế quyền
+ mang tính Đức nhiều hơn cả bộ luật dân sự Đức
+ không ngừng được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
+ phản ánh tư tưởng của cách mạng tư sản
+ xây dựng dựa trên nguyên tắc phi tôn giáo
+ thống nhất được các quan hệ từ dân sự cho đến chính trị
Câu hỏi: Thời gian soạn thảo của Bộ luật dân sự Napoleon chỉ trong 4 năm là rất ngắn ?
Trả lời: Ngắn là vì khi soạn luật kế thừa được rất nhiều từ những quy định cũ. Khác với Bộ luật dân sự Đức có thời gian soạn thảo đến 22 năm là do người Đức nghĩ ra những quy định hoàn toàn mới.
Câu hỏi: Tại sao nói Bộ luật dân sự Pháp lại có “tính Đức” hơn cả Bộ luật dân sự Đức ?
Trả lời: Vì bộ luật dân sự Pháp lấy rất nhiều tập quán Giec-manh của Đức vào, nên mang đậm tính Đức. Còn trong Bộ luật dân sự Đức lại không đưa các tập quán Giec-manh vào nên có ít tính Đức.
– Nội dung của Bộ luật dân sự Napoleon: gồm 3 phần
+ thiên mở đầu:
+ 3 quyển về Người, Tài sản và Thay đổi về sở hữu, Các phương thức xác lập quyền sở hữu
– Ý nghĩa của Bộ luật dân sự Napoleon:
+ đối với Pháp: không chỉ có ý nghĩa về mặt PL mà còn có ý nghĩa về mặt văn hóa, được coi là bản “Hiến pháp dân sự” của người Pháp ; ngoài ra bộ luật rất gần gũi với người dân, được coi là “sách gối đầu giường” của mỗi người dân Pháp, thậm chí nhiều nhà văn còn học cách hành văn của bộ luật này.
+ đối với thế giới: ảnh hưởng lớn đến PL nhiều quốc gia, như Bỉ, Hà Lan, Tây Ban Nha, các nước Đông Phi, Bắc Phi, … Đặc biệt các nước Mỹ La-tin chịu ảnh hưởng rất lớn. Cá biệt có Thụy Sỹ bê nguyên thành luật nước mình. Bộ luật dân sự Napoleon 1804 được coi là bộ luật có tầm ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới.
b. Nguồn luật
– PL thành văn
– Tập quán pháp
– Các nguyên tắc chung của PL
– Phán quyết của tòa án
– Các học thuyết pháp lý
c. Hệ thống tòa án Pháp
– Mô hình tòa án Pháp thường được gọi là mô hình kim tự tháp đôi. Đây là mô hình tòa án điển hình của việc phân chia hệ thống PL thành luật công và luật tư.
* Nhánh tòa tư pháp:
– Gồm 2 nhóm:
+ các tòa dân sự: Tòa dân sự sơ thẩm thẩm quyền hẹp, Tòa dân sự sơ thẩm thẩm quyền rộng, Tòa dân sự chuyên biệt
+ các tòa hình sự: Tòa vi cảnh, Tòa tiểu hình, Tòa hình sự chuyên biệt, Tòa đại hình
– Tòa dân sự sơ thẩm thẩm quyền hẹp:
+ xử những vụ việc dân sự có giá trị tranh chấp tối đa 10.000 Eur. Đối với những vụ việc dân sự có giá trị tranh chấp dưới 4000 Eur thì tòa này sẽ xét xử sơ thẩm và đồng thời là chung thẩm (tức là không có phúc thẩm).
+ thẩm phán không chuyên: tức là không được đào tạo bài bản về nghề thẩm phán, không có chứng chỉ hành nghề thẩm phán, chỉ cần hiểu biết PL và lĩnh vực xét xử
– Tòa địa phương:
+ được sinh ra nhằm giảm tải công việc cho Tòa dân sự sơ thẩm thẩm quyền hẹp
+ có chức năng tương tự với Tòa dân sự sơ thẩm thẩm quyền hẹp
+ thẩm phán không chuyên
+ xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm
– Tòa dân sự sơ thẩm thẩm quyền rộng:
+ xử những vụ việc dân sự có giá trị tranh chấp lớn hơn 10.000 Eur
+ thẩm phán chuyên nghiệp: được đào tạo bài bản, có chứng chỉ hành nghề thẩm phán
– Tòa dân sự chuyên biệt:
+ chuyên xét xử một số tranh chấp đặc biệt
+ gồm 3 tòa:
- Tòa thương mại
- Tòa lao động
- Tòa xét xử hợp đồng nông nghiệp
+ thẩm phán: cả chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp. VD với tòa thương mại thì thẩm phán có thể chỉ là thương nhân có hiểu biết PL; hoặc với tòa lao động thì thẩm phán có thể là chủ tịch 1 tập đoàn
– Tòa vi cảnh:
+ sơ thẩm các vụ án hình sự ít nghiêm trọng
+ thẩm phán không chuyên: VD cảnh sát có thể làm thẩm phán
– Tòa tiểu hình:
+ sơ thẩm các vụ án hình sự nghiêm trọng
+ thẩm phán chuyên nghiệp
– Tòa hình sự chuyên biệt:
+ gồm 3 tòa:
- Tòa vị thành niên
- Tòa quân sự
- Tòa an ninh quốc gia
+ thẩm phán chuyên nghiệp
– Tòa đại hình:
+ là dạng tòa ad-hoc (không thường trực), tổ chức 3 tháng 1 lần
+ chuyên xét xử sơ thẩm những vụ án đặc biệt nghiêm trọng
+ thẩm phán chuyên nghiệp
– Tòa tư pháp phúc thẩm:
+ xét xử phúc thẩm các vụ án có kháng cáo, kháng nghị từ các tòa cấp dưới (6 tòa cấp dưới)
+ thẩm phán chuyên nghiệp
Câu hỏi: Tất cả các bản án sơ thẩm về vụ việc dân sự, vụ án hình sự ở Pháp đều phải chuyển qua Tòa tư pháp phúc thẩm trước khi lên Tòa phá án.
Trả lời: Khẳng định là Sai. Vì bản án của Tòa đại hình có thể kháng cáo, kháng nghị lên thẳng Tòa phá án mà không cần phải qua Tòa tư pháp phúc thẩm.
– Tòa phá án: là tòa án cấp cao nhất của tư pháp (tương đương với Tòa án tối cao ở VN)
+ “phá án” không phải là khám phá vụ án, mà là “phá bỏ, phá hủy” bản án
+ tòa phá án không trực tiếp xét xử vụ việc, mà chỉ xem xét các tòa án cấp dưới áp dụng luật nội dung, luật hình thức có sai sót không, nếu phát hiện sai sót thì “phá hủy” bản án đó và chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cho 1 tòa án khác cùng cấp để xét xử lại.
* Nhánh tòa hành chính:
– Tòa hành chính sơ thẩm:
+ xét xử sơ thẩm các vụ việc hành chính theo phạm vi lãnh thổ
+ nếu có kháng cáo, kháng nghị sẽ chuyển lên cho Tòa hành chính phúc thẩm
– Tòa hành chính chuyên biệt:
+ gồm 4 tòa:
- Tòa kiểm toán
- Tòa kỷ luật ngân sách và tài chính
- Tòa dịch vụ y tế và xã hội
- Tòa giải quyết khiếu kiện của người tị nạn
+ nếu có kháng cáo, kháng nghị thì sẽ chuyển thẳng lên Tham chính viện (chứ không phải qua Tòa hành chính phúc thẩm)
+ ngoại lệ: với Tòa kiểm toán thì có 3 cấp, trình tự là: Tòa kiểm toán vùng (sơ thẩm) ==> Tòa kiểm toán trung ương (phúc thẩm) ==> Tham chính viện
– Tham chính viện: là tòa án cấp cao nhất của công pháp (tương đương với Tòa án tối cao ở VN)
+ vừa là cơ quan tư pháp, vừa là cơ quan hành pháp của Chính phủ
+ cơ cấu tổ chức gồm có 6 ban: 5 ban giúp việc cho Chính phủ, 1 ban xét xử
+ người đứng đầu Tham chính viện là Thủ tướng Chính phủ
+ thẩm quyền: có thể trực tiếp xét xử vụ việc khi có kháng cáo, kháng nghị (khác với Tòa phá án)
+ còn có chức năng là Cơ quan bảo hiến thứ 2 sau Hội đồng bảo hiến, xem xét các quyết định hành chính, các hành vi của Chính phủ có vi hiến không
* Tòa xung đột PL:
+ là tòa ad-hoc, có 2 trường hợp Tòa xung đột PL được thành lập:
- có 1 vụ việc mà cả tòa tư pháp và tòa hành chính đều nhận là thẩm quyền xét xử của mình ==> tòa được lập ra để xem xét vụ việc đó thuộc thẩm quyền xét xử của bên nào. Gọi là tranh chấp khẳng định, hay còn gọi là xung đột tích cực
- có 1 vụ việc mà cả tòa tư pháp và tòa hành chính đều không nhận thuộc thẩm quyền xét xử của mình ==> tòa được lập ra để xem xét vụ việc đó thuộc thẩm quyền xét xử của bên nào. Gọi là tranh chấp phủ định, hay còn gọi là xung đột tiêu cực
+ không xét xử trực tiếp vụ việc. Ngoại lệ: đối với vụ việc mà cả 2 tòa xử cho ra 2 bản án khác nhau, khi đó Tòa xung đột PL sẽ xét xử
+ cơ cấu thành viên: 9 người, trong đó 4 thành viên từ tòa tư pháp, 4 thành viên từ tòa hành chính, và Bộ trưởng bộ tư pháp. Nhiệm kỳ của mỗi thành viên là 3 năm.
* Hội đồng bảo hiến Pháp
– Là cơ quan độc lập: tức là không thuộc nhánh Công pháp hay Tư pháp
– Chức năng:
+ xem tính hợp lệ của các cuộc bầu cử Tổng thống
+ xem sự phù hợp với Hiến pháp với các điều ước quốc tế mà Pháp tham gia
+ bảo hiến:
- Xem xét tính hợp hiến của các đạo luật trước khi Nghị viện phê chuẩn (tức là chưa có hiệu lực)
- Từ 01/03/2010 (khi đạo luật cải tố Hiến pháp có hiệu lực) có thêm chức năng: xem xét các đạo luật đã được Nghị viện phê chuẩn (tức là đã có hiệu lực)
Chú ý: việc xem xét tính hợp hiến phải xuất phát từ 1 vụ việc trên thực tế. Tức là phải xuất phát từ việc xét xử 1 vụ việc cụ thể, thẩm phán nhận thấy văn bản PL áp dụng cho vụ việc đó có dấu hiệu vi hiến, khi đó thẩm phán đó sẽ gửi đơn yêu cầu xem xét tính hợp hiến của văn bản PL đó lên lên tòa cao nhất của nhánh tòa đó (ví dụ Tòa vi cảnh đang xét xử ==> gửi lên Tòa phá án ; Tòa hành chính sơ thẩm đang xét xử ==> gửi lên Tham chính viện)
– Cơ cấu thành viên: chia làm 2 nhóm:
+ thành viên đương nhiên: là những cựu tổng thống Pháp (nếu không từ chối), có nhiệm kỳ suốt đời
+ thành viên không đương nhiên (do bổ nhiệm): gồm 9 người, trong đó 3 người do tổng thống bổ nhiệm, 3 người do chủ tịch thượng viện bổ nhiệm, 3 người do chủ tịch hạ viện bổ nhiệm. Có nhiệm kỳ 9 năm, cứ 3 năm lại thay mới luân phiên 3 người (để đảo bảo tính mới + tính kế thừa)
d. Đào tạo luật và nghề luật
– Đào tạo luật ở Pháp gồm 2 giai đoạn:
+ giai đoạn 1: Đào tạo Cử nhân (đào tạo chung)
+ giai đoạn 2: Đào tạo nghề: chia thành
- Đào tạo thẩm phán
- Đào tạo luật sư
- Đạo tạo công chứng viên
– Đào tạo cử nhân:
+ đối tượng: tốt nghiệp THPT, kiểm tra đầu vào khá đơn giản (khác hoàn toàn với Mỹ)
+ nơi đào tạo: khoa luật trường ĐH Tổng hợp
+ thời gian: 3 năm
+ mục tiêu: khoa học luật (có kiến thức chuyên sâu về luật, nhưng không có mục tiêu hành nghề luật sau khi tốt nghiệp cử nhân luật)
+ chương trình học: khoa học đại cương, khoa học luật, luật thực định
+ nguồn học luật: chủ yếu là giáo trình, cũng có thêm án lệ (những không nhiều)
+ phương pháp đào tạo: kết hợp cả phương pháp truyền thống (giảng viên nói – học viên ghi chép) và phương pháp hiện đại (thảo luận vấn đề, thuyết trình, hùng biện, … nhưng không nhiều như đào tạo luật ở Anh, Mỹ)
+ kết thúc: nhận Bằng cử nhân luật
– Sau khi có Bằng cử nhân luật, sẽ trải qua 1 kỳ thi để được vào học 1 trong 3 nghề: thẩm phán, luật sư, công chứng viên
– Đào tạo thẩm phán:
+ nơi đào tạo:
- Với thẩm phán tòa án tư pháp: ĐH Boóc-đô
- Với thẩm phán tòa án hành chính: Học viện hành chính quốc gia Paris
+ quy trình: 31 tháng. Trong quá trình đào tạo được coi là thẩm phán tập sự và được trả lương.
+ kết thúc: trải qua quá trình thử thách => được Hội đồng thẩm phán TW lựa chọn => trình Tổng thống bổ nhiệm
+ nghề thẩm phán: nhiệm kỳ suốt đời, quy chế làm việc độc lập, ổn định (không bị thuyên chuyển nếu không đồng ý), lương rất cao
– Đào tạo luật sư:
+ nơi đào tạo: các trung tâm đào tạo nghiệp vụ quốc gia
+ quy trình đào tạo:
- 1 năm học lý thuyết: kết quả được cấp Giấy chứng nhận khả năng hành nghề luật sư
- 2 năm thực tập (trong đó 6 tháng tại Trung tâm đào tạo nghiệp vụ, 12 tháng tại tòa án hoặc văn phòng luật, 6 tháng tại văn phòng luật hoặc văn phòng công chứng): kết quả được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư
+ kết thúc: được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư. Sau đó phải gia nhập vào 1 đoàn luật sư để có thể hành nghề luật sư
+ ngoại lệ: những trường hợp không phải học nghề luật sư mà vẫn được hành nghề luật sư tại Pháp:
- Giáo sư luật, tiến sỹ luật, giảng viên luật, thẩm phán, công chứng viên
- Người từ 1 nước là thành viên của EU đã có chứng chỉ hành nghề luật sư ở nước họ
- Người không phải từ nước là thành viên EU nhưng có chứng chỉ hành nghề luật sư của nước đó và đã vượt qua kỳ thi sát hạch do Trung tâm đào tạo nghiệp vụ quốc gia tổ chức
+ nghề luật sư tại Pháp được coi là nghề kinh doanh tự do: luật sư được tự do liên hệ với thân chủ, tự do thỏa thuận thù lao với thân chủ (khác với Đức)
– Đào tạo công chứng viên:
+ quy trình: học nghề + thực tập
+ kết thúc: được cấp Chứng chỉ hành nghề công chứng viên. Điểm đặc biệt tại Pháp là hàng năm đều có sự hạn chế bổ nhiệm công chứng viên mới ==> có nhiều công chứng viên đã học xong nhưng chưa được bổ nhiệm chính thức ==> làm trợ lý cho công chứng viên già để chờ được bổ nhiệm thay thế
2. Hệ thống pháp luật Đức
a. Sơ lược quá trình phát triển hệ thống PL Đức
– Bối cảnh lịch sử:
+ trước 1871 (trước thời điểm nước Đức thống nhất): hệ thống PL giống với Pháp, tức là luật hỗn hợp
+ sau 1871: sau khi thống nhất, nước Đức cũng bắt đầu thống nhất hệ thống PL, được gọi là cuộc Đại pháp điển PL tại Đức, và kết quả đã hình thành nhiều bộ luật quan trọng như Bộ luật dân sự Đức 1896, Bộ luật thương mại Đức, …
* Bộ luật dân sự Đức 1896:
– Hoàn cảnh ra đời:
+ soạn thảo từ 1874 đến 1896, có hiệu lực năm 1900
+ do Hội đồng gồm các giáo sư các trường đại học của Đức soạn thảo (khác với BLDS Pháp do thẩm phán, luật sư soạn thảo) ==> còn được gọi là “bộ luật của các giáo sư” (BLDS Pháp được gọi là “bộ luật của người dân”)
– Đặc điểm:
+ ngôn ngữ trừu tượng, hàn lâm, uyên bác, khó hiểu (khác với BLDS Pháp là gần gũi, dễ hiểu với người dân)
+ kết cấu hiện đại, logic (hơn so với Bộ luật Dân sự Pháp): gồm Quyển 1 nêu những khái niệm và quy định chung, các quyển 2, 3, 4, 5 nêu từng lĩnh vực riêng
+ là bộ luật của những khái niệm (khác với luật dân sự Pháp có rất ít khái niệm)
+ tuy nhiên vẫn có nhiều quy định lạc hậu so với thời điểm ban hành (giống với BLDS Pháp)
+ không ngừng được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện (giống với BLDS Pháp)
+ có tính ổn định và hiệu lực lâu dài: đến nay vẫn còn hiệu lực (giống với BLDS Pháp)
– Nội dung:
+ Quyển 1: phần chung
+ Quyển 2: luật nghĩa vụ
+ Quyển 3: luật sở hữu tài sản
+ Quyển 4: luật gia đình
+ Quyển 5: luật thừa kế
– Ý nghĩa:
+ đối với nước Đức:
+ đối với thế giới: nhiều nước sau này học theo, nhất là Ý, Hi Lạp sao chép rất nhiều điều khoản từ BLDS Đức
* So sánh Bộ luật dân sự Đức với Bộ luật dân sự Pháp:
– Giống nhau:
+ đều có tính trường tồn: BLDS Đức ban hành năm 1900, BLDS Pháp ban hành năm 1804 và đến nay vẫn còn hiệu lực ==> cho thấy sự linh hoạt, sự thích ứng với những sự thay đổi của xã hội rất cao, đồng thời cho thấy kỹ thuật lập pháp của Pháp và Đức rất cao.
Mặc dù hiện nay các nội dung trong Bộ luật dân sự Pháp đã được thay đổi rất nhiều so với bản gốc năm 1804, tuy nhiên người Pháp vẫn giữ BLDS này, chỉ sửa đổi bổ sung mà không thay bằng BLDS mới, lý do là vì sự tự hào của người Pháp đối với BLDS của mình.
+ đều có tầm ảnh hưởng lớn: không chỉ đối với Đức, Pháp mà còn đối với các quốc gia khác trên thế giới tham khảo, học hỏi theo (thậm chí sao chép)
+ đều chịu ảnh hưởng từ luật cổ (luật La Mã, tập quán pháp, …) nhưng ở các mức độ khác nhau (BLDS Pháp chịu ảnh hưởng từ luật cổ nhiều hơn)
+ khi mới ra đời đều chứa đựng 1 số quy định lạc hậu: ví dụ trong BLDS Pháp 1804 quy định phụ nữ sau khi lấy chồng sẽ bị coi là mất năng lực hành vi dân sự, cả BLDS Pháp 1804 vào BLDS Đức 1900 đều hạn chế nhiều quyền của con ngoài giá thú so với con trong giá thú
– Khác nhau:
Bộ luật dân sự Pháp | Bộ luật dân sự Đức | |
Thời gian soạn thảo | Rất ngắn, chỉ trong 4 năm | Khá dài, trong 22 năm |
Người soạn thảo | Các luật gia, thẩm phán | Các giáo sư luật |
Đặc điểm về ngôn ngữ | Bình dân, dễ hiểu (được gọi là “bộ luật của người dân”) | Hàn lâm, khó hiểu. (được gọi là “bộ luật của giáo sư”)Lý do không phải vì người soạn thảo là các giáo sư luật, mà lý do chính là để tránh mâu thuẫn giữa các vùng, miền của Đức nên không thể “bê nguyên” các tập quán của các vùng miền vào BLDS (như cách làm của BLDS Pháp), mà các giáo sư luật của Đức đã phải rất dày công để tìm ra những cách diễn đạt khác với luật cổ ==> để người Đức thấy đây là luật mới, không phải của vùng miền nào ==> tránh được mâu thuẫn |
Mức độ ảnh hưởng từ luật cổ | Cao.BLDS Pháp chịu ảnh hưởng của luật La Mã, luật giáo hội, tập quán pháp (trong đó có rất nhiều tập quán giec-manh, đến mức mà BLDS Pháp được coi là “có tính Đức” nhiều hơn BLDS Đức) | Thấp. |
Cấu trúc | Không có phần chung mà đi thẳng vào các phần riêng luôn | Hiện đại, có phần chung + các phần riêng |
Tham vọng về phạm vi điều chỉnh | Có tham vọng điều chỉnh tất cả các quan hệ của luật tư. Nhưng mục đích không đạt được vì luật tư còn nhiều lĩnh vực chuyên sâu. | Không tham vọng, không gộp tất cả các luật tư vào BLDS mà tách riêng thành các bộ luật khác nhau |
b. Nguồn luật
– Pháp luật thành văn
– Tập quán pháp
– Những nguyên tắc PL chung
– Phán quyết của tòa án
– Các học thuyết PL
c. Hệ thống tòa án Đức
– Các tòa cấp bang và dưới bang: chỉ dừng ở mức phúc thẩm
– Các tòa tối cao: thuộc cấp liên bang
– Mặc dù nhìn sơ đồ có 6 nhánh (tính cả Tòa án hiến pháp), nhưng 2 nhánh chính vẫn là nhánh Tư pháp (luật tư) và nhánh Hành chính (luật công) . Tuy nhiên hệ thống tòa án Đức không được coi là điển hình của civil law (hệ thống tòa án Pháp là điển hình của civil law).
– Mặc dù Đức là nhà nước liên bang như Mỹ, nhưng hệ thống tòa án Đức không thể hiện rõ tính liên bang như ở Mỹ (ở Mỹ mỗi bang có 1 hệ thống tòa án của bang riêng từ sơ thẩm – phúc thẩm – tối cao, độc lập với bang khác và độc lập với liên bang; trong khi hệ thống tòa án Đức ở cấp bang chỉ có cấp sơ thẩm, phúc thẩm, còn tòa án tối cao lại thuộc liên bang)
Câu hỏi: Trong hệ thống tòa án Đức, tòa án tư pháp liên bang và tòa án tư pháp tối cao là một. Đúng hay Sai ?
Trả lời: Khẳng định là Đúng. Vì tòa án cấp bang của Đức chỉ đến cấp phúc thẩm, còn tòa án tối cao thuộc cấp liên bang. Vì vậy có thể nói Tòa án tư pháp liên bang và Tòa án tư pháp tối cao đều có nghĩa như nhau.
* Nhánh tòa tư pháp:
– Gồm 4 cấp tòa:
+ Tòa Amsgericht (AG) là tòa tư pháp cấp bang có thẩm quyền thấp nhất, xét xử những vụ kiện dân sự nhỏ, các vi phạm hình sự nhỏ (vi cảnh)
+ Tòa Landgericht (LG): tòa tư pháp cấp bang có thẩm quyền cao hơn AG, xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự và tranh chấp dân sự, xét xử phúc thẩm các bản án AG bị kháng cáo, kháng nghị
+ Tòa Oberlandesgericht (OLG): là tòa tư pháp phúc thẩm, xét xử phúc thẩm các bản án của LG bị kháng cáo, kháng nghị
+ Tòa Liên bang Bundesgerichtshof (BGH): là tòa tư pháp cấp cao nhất, có chức năng tương tự như Tòa phá án của Pháp.
– Tòa án tư pháp sơ thẩm cấp 1:
+ khác với Pháp, ở Đức là tòa án có thẩm quyền chung, gộp cả dân sự, hình sự
+ khác với Pháp, ở Đức không có tòa chuyên biệt
– Tòa tư pháp tối cao:
+ thẩm quyền: giống Tòa phá án của Pháp (không trực tiếp xét xử mà chỉ xem xét việc áp dụng lội dung và luật hình thức có đúng không, nếu không đúng thì chuyển cho tòa án khác cùng cấp xét xử lại)
* Nhánh tòa hành chính:
– Tòa hành chính tối cao liên bang: giống với Tham chính viện của Pháp, nhưng chỉ là cơ quan tư pháp (còn Tham chính viện của Pháp thì vừa là cơ quan tư pháp, vừa là cơ quan chính phủ)
– Khác với Pháp, ở Đức thì Tòa hành chính tối cao không có chức năng bảo hiến.
– Khác với Pháp, ở Đức không có tòa chuyên biệt bên trong tòa hành chính, mà tách hẳn ra ngoài gồm các tòa bảo hiểm, tòa lao động, tòa tài chính
– Được tổ chức thành 3 cấp. Riêng Tòa tài chính chỉ có 2 cấp.
* Tòa án hiến pháp Đức:
– Về cơ cấu cũng có đầy đủ các cấp tòa: Tòa án hiến pháp sơ thẩm bang, Tòa án hiến pháp phúc thẩm bang, Tòa án hiến pháp liên bang. Tuy nhiên tòa án hiến pháp bang không phải là cấp dưới của Tòa án hiến pháp liên bang (khác với các nhánh tư pháp, hành chính)
(Ở đây chỉ nghiên cứu Tòa án hiến pháp liên bang)
– Cơ cấu thành viên của tòa án hiến pháp liên bang:
+ gồm 16 thẩm phán, trong đó 8 người do Thượng viện bổ nhiệm, 8 người do Hạ viện bổ nhiệm.
+ Nhiệm kỳ 12 năm (so với Pháp là 9 năm). Cá biệt: có trường hợp nhiệm kỳ nhiều hơn 12 năm, đó là trường hợp 1 thành viên chết, bổ nhiệm người mới thay thế, người mới sẽ tiếp tục làm nốt nhiệm kỳ của người cũ + nhiệm kỳ mới, nhưng tổng thời gian không quá 15 năm
– Chức năng của tòa án hiến pháp liên bang: bảo vệ hiến pháp liên bang, gồm:
- Xem xét tính hợp hiến của các đạo luật chưa được phê chuẩn
- Xem xét tính hợp hiến của các đạo luật đã được phê chuẩn
- Xem xét tính hợp hiến của các quyết định hành chính, các hành vi của chính phủ (giống với Tham chính viện của Pháp)
- Việc xem xét không cần phải xuất phát từ 1 vụ việc cụ thể trên thực tế (khác với Pháp)
– Thẩm quyền của tòa án hiến pháp liên bang:
- Quyền tuyên bố 1 đạo luật là vi hiến nếu đạo luật đó trái với Luật cơ bản (Điều 100, khoản 1 Luật cơ bản)
- Quyền giải thích Hiến pháp (Điều 93, khoản 1, ý 2 Luật cơ bản)
- Quyền giải quyết xung đột thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở Liên bang (Điều 93, khoản 1, ý 1 Luật cơ bản)
- Quyền giải quyết tranh chấp thẩm quyền giữa liên bang và tiểu bang (Điều 93, khoản 1, ý 3 và ý 4 Luật cơ bản)
* So sánh hệ thống tòa án Pháp với hệ thống tòa án Đức:
Hệ thống tòa án Pháp | Hệ thống tòa án Đức | |
Cơ quan bảo hiến | ||
+ Tên gọi | Hội đồng hiến pháp | Tòa án hiến pháp |
+ Thành viên | – Thành viên đương nhiên: các cựu tổng thống Pháp, nhiệm kỳ suốt đời– 9 thành viên bổ nhiệm: 3 do tổng thống, 3 do thượng viện, 3 do hạ viện bổ nhiệm– Nhiệm kỳ 9 năm: chỉ được bổ nhiệm 1 nhiệm kỳ duy nhất, không được tái bổ nhiệm, cứ 3 năm lại thay thế và bổ nhiệm mới 3 thẩm phán | – Chỉ có thành viên bổ nhiệm– Gồm 16 thẩm phán, trong đó 8 do thượng viện, 8 do hạ viện bầu (chỉ được bổ nhiệm 1 nhiệm kỳ duy nhất, không được tái bổ nhiệm)– Nhiệm kỳ 12 năm |
+ Chức năng | – Xem xét các khiếu kiện liên quan đến bầu cử tổng thống, nghị viện– Đảm bảo các cuộc trưng cầu dân ý diễn ra đúng luật– Xem xét sự phù hợp của hiến pháp Pháp với điều ước quốc tế mà Pháp tham gia– Bảo vệ hiến pháp:+ Xem xét tính hợp hiến của các đạo luật trước khi Nghị viện phê chuẩn (tức là chưa có hiệu lực)+ Từ 01/03/2010 (khi đạo luật cải tố Hiến pháp có hiệu lực) có thêm chức năng: xem xét các đạo luật đã được Nghị viện phê chuẩn (tức là đã có hiệu lực), nhưng với yêu cầu là phải gắn liền với 1 vụ việc cụ thể– Hội đồng hiến pháp của Pháp phải chia sẻ quyền bảo vệ hiến pháp Pháp với Tham chính viện (là cơ quan bảo hiến thứ 2 của Pháp):+ Xem xét tính hợp hiến của các quyết định hành chính, các hành vi của chính phủ thuộc thẩm quyền của Tham chính viện | – Bảo vệ hiến pháp: (được quy định trong Luật cơ bản của Đức)+ Xem xét tính hợp hiến của các đạo luật chưa được phê chuẩn+ Xem xét tính hợp hiến của các đạo luật đã được phê chuẩn+ Xem xét tính hợp hiến của các quyết định hành chính, các hành vi của chính phủ (giống với Tham chính viện của Pháp)+ Việc xem xét không cần phải xuất phát từ 1 vụ việc cụ thể trên thực tế (khác với Pháp)– Tòa án hiến pháp của Đức có toàn quyền bảo vệ hiến pháp |
+ Thẩm quyền | – Quyền tuyên bố 1 đạo luật là vi hiến nếu đạo luật đó trái với Luật cơ bản– Quyền giải thích Hiến pháp– Quyền giải quyết xung đột thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở Liên bang– Quyền giải quyết tranh chấp thẩm quyền giữa liên bang và tiểu bang | |
Hệ thống tòa tư pháp | ||
Giống nhau:+ đều có hệ thống tòa tư pháp (hay còn gọi là hệ thống tòa án có thẩm quyền chung) được tổ chức độc lập so với hệ thống tòa hành chính ==> đây là đặc trưng của civile law+ đều là các cơ quan xét xử các vụ việc dân sự và hình sự+ tòa án cấp cao nhất đều chỉ xem xét về mặt áp dụng PL (tức là tuân thủ luật tố tụng) chứ không xem xét về nội dung vụ việc, nếu phát hiện sai sót thì sẽ giao cho tòa án khác cùng cấp với tòa án đã xét xử để xét xử lại ==> tòa án tối cao ở cả Pháp, Đức không phải là cơ quan xét xử phúc thẩm | ||
+ Cơ cấu tổ chức | – Gồm 3 cấp tòa– Có các tòa chuyên biệt (như tòa lao động, tòa thương mại, …), nằm bên trong hệ thống tòa tư pháp | – Gồm 4 cấp tòa– Không có các tòa chuyên trách, mà tách riêng khỏi hệ thống tòa tư pháp thành các hệ thống tòa độc lập (hệ thống tòa lao động, hệ thống tòa bảo hiểm xã hội, hệ thống tòa tài chính) |
+ Cấp tòa xét xử cuối cùng | – Tên gọi: Tòa phá án– Thẩm quyền: hủy bản án của tòa án cấp dưới nếu phát hiện sai sót và giao cho tòa án khác cùng cấp xét xử lại | – Tên gọi: Tòa tối cao liên bang– Thẩm quyền:+ giống với Tòa phá án của Pháp+ có thêm thẩm quyền xét xử sơ thẩm của những vụ việc liên quan đến thủ tục thu hồi bằng sáng chế |
Hệ thống tòa hành chính | ||
+ Vị trí, chức năng | – Vừa là cơ quan tư pháp, vừa là cơ quan hành chính ==> gọi là cơ quan “lưỡng tính”. Thể hiện ở Tham chính viện, có 6 ban thì 5 ban là giúp việc cho Chính phủ Pháp, 1 ban là cơ quan xét xử | – Là 1 nhánh tòa độc lập |
+ Thẩm phán | Thẩm phán ở các Tòa hành chính được đào tạo cùng với những nhân sự của Chính phủ Pháp (tại Học hiện hành chính, chứ không phải được đào tạo tại các khoa luật như ở các tòa khác) | |
+ Cấp tòa xét xử cuối cùng | – Tên gọi: Tham chính viện– Thẩm quyền:+ có thể trực tiếp xét xử lại vụ việc khi có kháng cáo, kháng nghị+ bảo vệ hiến pháp | – Tên gọi: Tòa hoành chính tối cao liên bang– Thẩm quyền:+ xem xét các bản án của tòa cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị; nếu phát hiện sai sót thì hủy bỏ bản án và yêu cầu tòa cấp dưới cùng cấp xét xử lại+ trực tiếp xét xử 1 số vụ việc quan trọng, có tầm ảnh hưởng đến quốc gia |
d. Đào tạo luật và nghề luật
– Gồm 2 giai đoạn, đào tạo liên tục và cùng trong 1 cơ sở (khác với Pháp)
* Giai đoạn 1: đào tạo cử nhân
– Đối tượng: tốt nghiệp trung học phổ thông
– Nơi đào tạo: khoa luật ĐH Tổng hợp
– Thời gian: 3.5 đến 5 năm
– Mục tiêu: khoa học luật
– Chương trình: khoa học đại cương + khoa học luật + luật thực định
– Học liệu: giáo trình + án lệ
– Phương pháp đào tạo: truyền thống + hiện đại
– Kết thúc: được cấp Giấy chứng nhận hoàn thành giai đoạn 1 (khác với Pháp là bằng cử nhân luật)
* Giai đoạn 2: đào tạo nghề
– Học chung 1 quy trình 3 năm:
+ lý thuyết: 1 năm
+ thực tập: 2 năm, gồm 17 tháng chung (cụ thể 6 tháng tại tòa án, 4 tháng tại công ty luật, 3 tháng tại cơ quan công tố, 4 tháng tại cơ quan nhà nước) và 7 tháng phân ngành (thực tập tại tòa án với thẩm phán / công ty luật với luật sư / văn phòng công chứng với công chứng viên)
+ kết thúc: thi để lấy chứng chỉ
– Với thẩm phán bang: nộp đơn lên Bộ tư pháp bang ==> Bộ trưởng Bộ Tư pháp bang (hoặc Nghị viện bang) bổ nhiệm làm thẩm phán thử việc ==> sau 5 năm (nếu đã là công chức thì chỉ cần 2 năm) sẽ bổ nhiệm thẩm phán chính thức
– Với thẩm phán liên bang: do Bộ trưởng Bộ tư pháp liên bang và Ủy ban tuyển chọn thẩm phán liên bang lựa chọn ==> trình Tổng thống bổ nhiệm.
– Nhiệm kỳ của thẩm phán là suốt đời, làm việc độc lập chỉ tuân theo PL, lương cao (giống Pháp)
– Với luật sư: phải gia nhập đoàn luật sư, bị ràng buộc bởi quy chế của nhà nước (không được tự do hành nghề như ở Pháp)
– Với công chứng viên: do bị hạn chế số lượng nên có thể chuyển sang làm luật sư (khác với Pháp)
Tham khảo trọn bộ bài giảng các môn học Luật so sánh: https://study.phapche.edu.vn/khoa-hoc-tim-hieu-mon-luat-so-sanh?ref=lnpc
Mời bạn xem thêm: