Sơ đồ bài viết
Tội trộm cắp tài sản thông qua việc rút bớt hàng hóa là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác bằng cách bớt xén, tráo đổi hoặc thay thế hàng hóa trong quá trình quản lý, vận chuyển hay phân phối. Đây là một hình thức vi phạm pháp luật phổ biến trong môi trường kinh doanh, gây tổn thất lớn cho doanh nghiệp và chủ sở hữu tài sản. Cùng tìm hiểu một số tình huống thực tế về hành vi này, các quy định pháp luật liên quan và mức xử lý theo quy định hiện hành trong bài viết “Tình huống về tội trộm cắp tài sản thông qua việc rút bớt hàng hóa”!
Tham khảo trọn bộ bài giảng môn học Luật Hình sự: https://study.phapche.edu.vn/khoa-hoc-tim-hieu-mon-luat-hinh-su-1?ref=lnpc
Tình huống về tội trộm cắp tài sản thông qua việc rút bớt hàng hóa
K là chủ kiêm lái xe thường xuyên được Công ty X thuê chở hàng từ kho của công ty giao cho Hợp tác xã M. Trong một lần chở hàng, do đã quen nhau nên thủ kho của công ty X thỏa thuận và cho K vào kho tự bốc và xếp hàng lên xe, mỗi chuyến là 30 bao hàng ra cổng thủ kho mới kiểm tra số hàng vận chuyển và ký vào phiếu xuất hàng. Hôm đó K đã chở được 4 chuyến, mỗi chuyến đúng 30 bao hàng, đến chuyến thứ 5 K xếp thêm 2 bao hàng lên xe (vượt 2 bao so với thỏa thuận với thủ kho). Khi ra cổng kho, K có thái độ điềm nhiên như vẫn chở 30 bao hàng như các chuyến trước và đưa phiếu xuất hàng cho thủ kho ký. Tin rằng K chở đủ số bao hàng như đã thoả thuận và đã giữa trưa nên thủ kho không đếm lại số bao hàng K vận chuyển mà ký xác nhận ngay vào phiếu xuất hàng như các chuyến trước. Bằng thủ đoạn trên K đã chiếm đoạt được 2 bao hàng của Công ty X trị giá là 5 triệu đồng.
Về hành vi chiếm đoạt tài sản của K có các ý kiến sau về tội danh:
a. K phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
b. K phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
c. K phạm tội trộm cắp tài sản.
Hỏi:
1. Anh (chị) hãy bác bỏ các ý kiến sai; Xác định ý kiến đúng và giải thích rõ tại sao. (3 điểm)
2. Trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra còn xác định được ngoài hành vi chiếm đoạt tài sản nói trên, K còn rút bớt mỗi chuyến một số hàng hóa của Hợp tác xã M tổng giá trị là 10 triệu đồng. Hãy định tội cho hành vi này. (2 điểm)
3. Toàn bộ số tài sản chiếm đoạt được K đã bán lại cho N. Theo anh (chị) N có phải chịu TNHS về hành vi của mình không? Tại sao? (2 điểm)
1. Xác định tội danh của K trong hành vi chiếm đoạt 2 bao hàng của Công ty X
- Bác bỏ quan điểm K phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS 1999):
- Tội lừa đảo yêu cầu có hành vi gian dối trước khi nhận tài sản, trong khi K chỉ thực hiện gian dối sau khi hàng đã được bốc xếp.
- Thủ kho không tự nguyện giao thêm tài sản do bị lừa dối, mà chỉ sơ suất trong việc kiểm tra.
- Bác bỏ quan điểm K phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140 BLHS 1999):
- Tội này yêu cầu việc chiếm đoạt xảy ra sau khi tài sản đã được giao trên cơ sở hợp đồng hợp pháp.
- Công ty X không có hợp đồng giao tài sản trong kho cho K mà chỉ thuê K vận chuyển.
- Hành vi của K không thuộc trường hợp lợi dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản.
- Kết luận: K phạm tội Trộm cắp tài sản (Điều 138 BLHS 1999, sửa đổi 2009):
- Hành vi lén lút lấy thêm 2 bao hàng khi tự bốc xếp thể hiện thủ đoạn trộm cắp.
- Tài sản vẫn thuộc sự quản lý của Công ty X thông qua thủ kho, nhưng thủ kho đã sơ suất không kiểm tra lại.
- K đã hoàn thành hành vi chiếm đoạt tài sản khi ra khỏi kho mà không bị phát hiện.
2. Xác định tội danh của K trong hành vi rút bớt hàng hóa của Hợp tác xã M
- Hành vi rút bớt hàng mỗi chuyến, tổng giá trị 10 triệu đồng, cho thấy K đã có ý thức chiếm đoạt ngay từ đầu.
- K tiếp tục phạm tội Trộm cắp tài sản (Điều 138 BLHS 1999) với phương thức gian lận số lượng hàng khi vận chuyển.
- Đây là hành vi chiếm đoạt tài sản đang thuộc quyền quản lý của Hợp tác xã M mà K không có quyền sở hữu.
3. Xác định trách nhiệm hình sự của N (người mua tài sản do K chiếm đoạt)
- Xét đến tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (Điều 250 BLHS 1999, sửa đổi 2009):
- Nếu N biết rõ tài sản do K phạm tội mà có nhưng vẫn mua, thì N phạm tội tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có.
- Nếu N không biết hoặc không thể biết nguồn gốc tài sản, thì N không phạm tội.
- Cần làm rõ yếu tố chủ quan của N để xác định trách nhiệm hình sự.
Kết luận chung
- K phạm tội Trộm cắp tài sản (Điều 138 BLHS) đối với cả hai hành vi chiếm đoạt tài sản của Công ty X và Hợp tác xã M.
- N có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có nếu biết rõ nguồn gốc phi pháp của tài sản.
Mời bạn xem thêm: