Sơ đồ bài viết
Các bài tập tình huống Luật hình sự phần 1 là công cụ hữu ích giúp người học và những ai quan tâm đến lĩnh vực pháp lý hiểu rõ hơn về các quy định, nguyên tắc, cũng như ứng dụng thực tế của Luật hình sự. Thông qua những tình huống mô phỏng thực tế, người đọc có thể nắm bắt được cách thức phân tích và giải quyết các vấn đề pháp lý, từ đó nâng cao khả năng áp dụng pháp luật vào đời sống. Nếu bạn đang tìm kiếm những bài tập tình huống Luật hình sự chất lượng, hãy cùng khám phá để mở rộng kiến thức và kỹ năng giải quyết các vấn đề pháp lý trong môi trường thực tế.
Tham khảo trọn bộ bài giảng môn học Luật dân sự: https://study.phapche.edu.vn/khoa-hoc-tim-hieu-mon-luat-dan-su-1?ref=lnpc
Các bài tập tình huống Luật hình sự phần 1
Tình huống 1: Xác định tội danh
X và P rủ nhau đi săn thú rừng, khi đi X và P mỗi người mang theo khẩu súng săn tự chế. Hai người thoả thuận người nào phát hiện có thú dữ, trước khi bắn sẽ huýt sáo 3 lần, nếu không thấy phản ứng gì sẽ bắn. Sau đó họ chia tay mỗi người một ngả. Khi X đi được khoảng 200 mét, X nghe có tiếng động, cách X khoảng 25 mét. X huýt sao 3 lần nhưng không nghe phản ứng gì của P. X bật đèn soi về phía có tiếng động thấy có ánh mắt con thú phản lại nên nhằm bắn về phía con thú. Sau đó, X chạy đến thì phát hiện P đã bị trúng đạn nhưng chưa chết hẳn. X vội đưa P đến trạm xá địa phương để cấp cứu, nhưng P đã chết trên đường đi.
Câu hỏi:
Xác định tội danh của X? (5 điểm)
Giả sử P không chết chỉ bị thương, tỷ lệ thương tật là 29%, X có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Tại sao? (2 điểm)
1. Xác định tội danh của X
Căn cứ vào tình huống trên, X phạm tội vô ý làm chết người theo khoản 1 Điều 128 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017): “Người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”
- Khách thể của tội phạm: Tội này xâm phạm quyền sống của con người, bảo vệ tính mạng, quyền được sống của nạn nhân. Trong tình huống này, hành vi của X đã tước đoạt mạng sống của P, do đó xâm phạm đến quyền nhân thân của P.
- Mặt khách quan của tội phạm:
- Hành vi khách quan của tội phạm: X có hành vi vi phạm quy tắc an toàn trong khi săn bắn. Cụ thể, X đã bắn súng về phía một đối tượng mà không xác định rõ là thú hay người, làm P bị trúng đạn. Mặc dù X đã thực hiện hành động theo thỏa thuận với P, nhưng trong tình huống này, X đã không cẩn thận khi sử dụng vũ khí, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng.
- Hậu quả của tội phạm: Hành vi của X đã gây ra hậu quả là làm chết người (P).
- Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả: Hành vi bắn súng của X đã trực tiếp dẫn đến cái chết của P. Do đó, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của X và hậu quả chết người.
- Mặt chủ quan của tội phạm: X phạm tội với lỗi vô ý vì quá tự tin. Mặc dù X nhận thức được sự nguy hiểm của hành vi săn bắn, nhưng X cho rằng hậu quả chết người không xảy ra, từ đó thực hiện hành vi mà không đủ thận trọng. X không mong muốn hậu quả chết người nhưng đã để xảy ra sự việc do thiếu sự cẩn trọng cần thiết.
- Chủ thể của tội phạm: X là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi luật định để chịu trách nhiệm hình sự.
Kết luận: X phạm tội vô ý làm chết người theo Điều 128 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Ngoài ra, hành vi sử dụng vũ khí tự chế trong tình huống này có thể bị xử lý hành chính theo Nghị định 167/2013/NĐ-CP, đặc biệt về hành vi sử dụng vũ khí cấm.
2. Giả sử P không chết chỉ bị thương, tỷ lệ thương tật là 29%, X có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Tại sao?
Trong trường hợp P không chết mà chỉ bị thương, tỷ lệ thương tật là 29%, X không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội vô ý làm chết người.
Theo Điều 108 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên mới bị xử lý hình sự. Vì tỷ lệ thương tật của P chỉ là 29%, nên X không phạm tội này.
Tuy nhiên, X có thể bị xử phạt hành chính về hành vi sử dụng vũ khí tự chế trong trường hợp này, theo Nghị định 167/2013/NĐ-CP, bởi hành vi này gây nguy hiểm cho tính mạng và sức khỏe của người khác.
Tình huống 2: Cấu thành tội phạm
A, B, K uống rượu say, đi loạng choạng và ngã ở dọc đường, H và Q phát hiện chị B cùng với hai người bạn nằm bên đường. Thấy chị B đeo nhiều nữ trang bằng vàng, H và Q lấy đi toàn bộ tài sản trị giá 10 triệu đồng. Gần sáng cơn say hết, chị B tỉnh giấc mới biết mình bị mất tài sản và đi báo công an.
Về vụ án này có các ý kiến sau đây về tội danh của H và Q:
H và Q phạm tội cướp tài sản;
H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản;
H và Q phạm tội trộm cắp tài sản.
Câu hỏi: Hành vi của H, Q cấu thành tội gì? Tại sao?
Hành vi của H và Q trong tình huống này cấu thành tội trộm cắp tài sản, vì họ thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của chị B (nữ trang bằng vàng) một cách lén lút và không có sự nhận thức của chủ sở hữu vào thời điểm chiếm đoạt. Dưới đây là phân tích cụ thể:
- Khách thể của tội phạm: Tội trộm cắp tài sản chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu tài sản mà không làm tổn hại đến thân thể hay tự do của con người. Trong trường hợp này, H và Q đã lấy tài sản của chị B mà không xâm phạm đến thân thể hoặc tự do của chị B hay hai người bạn của cô.
- Mặt khách quan: Tội trộm cắp tài sản yêu cầu hành vi chiếm đoạt tài sản phải diễn ra “lén lút”, nghĩa là người phạm tội phải thực hiện hành vi chiếm đoạt mà chủ sở hữu không biết. Trong tình huống này, H và Q đã lợi dụng việc chị B và hai người bạn say rượu, không thể chống cự hoặc nhận thức được hành vi của chúng. Việc chị B chỉ phát hiện mất tài sản sau khi tỉnh dậy vào sáng hôm sau cho thấy đây là hành vi lén lút, đúng đặc điểm của tội trộm cắp.
- Mục đích chiếm đoạt tài sản: Mục đích của H và Q là chiếm đoạt tài sản (nữ trang vàng trị giá 10 triệu đồng). Họ không có sự cho phép của chủ sở hữu (chị B) và hành vi chiếm đoạt tài sản không được chủ sở hữu phát hiện ngay.
- Yếu tố cố ý: H và Q thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản với lỗi cố ý, có mục đích lấy tài sản của người khác mà không có sự đồng ý của họ.
Như vậy, hành vi của H và Q thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 173 BLHS 2015. Cụ thể là hành vi chiếm đoạt tài sản lén lút, không có sự nhận thức của chủ sở hữu trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội.
Kết luận: Hành vi của H và Q cấu thành tội trộm cắp tài sản.
Tình huống 3: Định tội danh
A là chủ kiêm lái xe chở xăng dầu. A ký hợp đồng với công ty X vận chuyển dầu chạy máy cho công ty. Sau vài lần vận chuyển, A đã học được thủ đoạn lấy bớt dầu vẫn chuyển của công ty X như sau:
Khi nhận được dầu A chạy xe tới điểm thu mua dầu của B và nhanh chóng rút dầu ra bán cho B mỗi lần 200 lít. Sau đó A đổ đầy nước vào chiếc thùng phi đúng 200 lít. Đến địa điểm giao hàng, chiếc xe được cân đúng trọng lượng quy định nên được nhập dầu vào kho. Trong thời gian chờ đợi cân trọng lượng của xe sau khi giao dầu, A đã bí mật đổ hết số nước đã chất lên xe để khi cân chỉ còn đúng trọng lượng của xe.
Bằng thủ đoạn trên A đã nhiều lần lấy dầu được thuê vận chuyển với tổng trị giá là 100 triệu đồng thì bị phát hiện.
Câu hỏi:
Anh (chị) hãy xác định tội danh cho hành vi của A?
B có phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tiêu thụ dầu của A không? Nếu có thì tội danh cho hành vi của B là gì?
1. Xác định tội danh cho hành vi của A:
Trong trường hợp này, hành vi của A có thể cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015. Cụ thể:
- Khách thể của tội phạm: Tài sản (dầu) đã được công ty X giao cho A vận chuyển nhưng A đã chiếm đoạt thông qua thủ đoạn gian dối.
- Chủ thể của tội phạm: A là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đã được công ty X giao nhiệm vụ vận chuyển dầu. Vì vậy, A là chủ thể của tội này.
- Mặt khách quan: A đã lợi dụng sự tín nhiệm của công ty X trong việc giao dầu và thực hiện hành vi gian dối, cụ thể là lấy bớt dầu, thay vào đó là nước, và bán dầu cho B. A đã làm giả trọng lượng của xe để đánh lừa công ty X.
- Mặt chủ quan: A thực hiện hành vi chiếm đoạt dầu với lỗi cố ý trực tiếp, mong muốn thu lợi từ việc bán dầu chiếm đoạt, đồng thời nhận thức rõ hành vi này là vi phạm pháp luật.
Tài sản A chiếm đoạt có tổng trị giá 100 triệu đồng, vì vậy hành vi của A có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 175 BLHS với khung hình phạt từ 2 đến 7 năm tù.
2. B có phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tiêu thụ dầu của A không?
Tùy thuộc vào sự hiểu biết và hành vi của B, B có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (Điều 323 BLHS). Các trường hợp có thể xảy ra như sau:
- Trường hợp 1: B không biết dầu là tài sản chiếm đoạt
Nếu B hoàn toàn không biết dầu mà A bán cho mình là dầu chiếm đoạt từ công ty X, và B chỉ mua dầu vì mục đích hợp pháp, B không phải chịu trách nhiệm hình sự. - Trường hợp 2: B biết rõ dầu là tài sản chiếm đoạt nhưng vẫn mua
Nếu B biết rõ rằng dầu A bán cho mình là tài sản chiếm đoạt, nhưng vẫn cố tình tiêu thụ, hành vi của B cấu thành tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo Điều 323 BLHS. Trong trường hợp này, B sẽ chịu trách nhiệm hình sự với mức hình phạt từ 1 đến 5 năm tù. - Trường hợp 3: B và A có sự thỏa thuận trước
Nếu giữa A và B có thỏa thuận từ trước về việc A sẽ chiếm đoạt dầu để bán cho B (ví dụ, bán dầu giá thấp hơn giá thị trường), hành vi của B sẽ cấu thành tội đồng phạm với A trong việc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS). Khi đó, B sẽ bị xử lý với vai trò đồng phạm.
Kết luận:
- A có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 BLHS.
- B có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (Điều 323 BLHS) nếu B biết rõ hành vi chiếm đoạt của A. Nếu B có sự thỏa thuận với A từ trước, B có thể bị truy cứu trách nhiệm về tội đồng phạm.
Mời bạn xem thêm: