fbpx
ICA - Học viện đào tạo pháp chế doanh nghiệp
Văn bản pháp luật do ai ban hành?

Văn bản pháp luật là những quy định và chỉ thị có tính chất pháp lý, được ban hành bởi các cơ quan có thẩm quyền trong hệ thống pháp luật. Việc ban hành văn bản pháp luật không chỉ phản ánh quyết sách của nhà nước về quản lý xã hội và quản lý kinh tế, mà còn bảo vệ quyền và nghĩa vụ của công dân. Các cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật bao gồm Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, các Bộ trưởng và các cơ quan chính phủ khác, Tòa án và Viện kiểm sát. Cùng tìm hiểu chi tiết trong bài viết “Văn bản pháp luật do ai ban hành?” sau của ICA nhé!

Văn bản quy phạm pháp luật là gì?

Dựa theo quy định tại Điều 2 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, văn bản quy phạm pháp luật được định nghĩa là loại văn bản chứa đựng các quy định pháp lý và được phát hành theo đúng quyền hạn, hình thức, quy trình và thủ tục được quy định bởi Luật này.

Quy phạm pháp luật, theo định nghĩa này, là những quy tắc chung, mang tính bắt buộc và áp dụng rộng rãi, được thực thi lặp đi lặp lại đối với các cơ quan, tổ chức và cá nhân trên phạm vi toàn quốc hoặc tại các đơn vị hành chính cụ thể.

Một văn bản, dù chứa đựng quy phạm pháp luật, nhưng nếu không được ban hành theo đúng quyền hạn, hình thức, trình tự và thủ tục như quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, thì không được coi là một văn bản quy phạm pháp luật hợp lệ.

Văn bản pháp luật do ai ban hành?

Các cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật tại Việt Nam bao gồm:

Văn bản pháp luật do ai ban hành?
Văn bản pháp luật do ai ban hành?
  • Quốc hội: Chịu trách nhiệm ban hành Hiến pháp, các Bộ luật, Luật và Nghị quyết.
  • Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Có quyền ban hành Pháp lệnh và Nghị quyết.
  • Ủy ban Thường vụ Quốc hội cùng với Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Phụ trách việc ban hành các Nghị quyết liên tịch.
  • Chủ tịch nước: Ban hành các Lệnh và Quyết định.
  • Chính phủ: Được uỷ quyền ban hành Nghị định.
  • Chính phủ cùng với Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Cùng nhau ban hành Nghị quyết liên tịch.
  • Thủ tướng Chính phủ: Ban hành các Quyết định.
  • Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: Ban hành Nghị quyết.
  • Chánh án Tòa án nhân dân tối cao: Phụ trách ban hành Thông tư.
  • Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Cũng ban hành Thông tư.
  • Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ: Ban hành Thông tư.
  • Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ: Cùng nhau ban hành Thông tư liên tịch (Lưu ý không ban hành thông tư liên tịch giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ).
  • Tổng Kiểm toán nhà nước: Ban hành Quyết định.
  • Hội đồng nhân dân các cấp: Ban hành Nghị quyết.
  • Ủy ban nhân dân các cấp: Ban hành Quyết định.
  • Chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt: Có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với cấp độ và phạm vi quản lý của mình.

Quy định về ngôn ngữ, kỹ thuật văn bản quy phạm pháp luật

Điều 8 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, được sửa đổi vào năm 2020, quy định cụ thể về ngôn ngữ và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật như sau:

  • Ngôn ngữ chính thức sử dụng trong văn bản quy phạm pháp luật là tiếng Việt, và ngôn ngữ này phải được sử dụng một cách chính xác, rõ ràng, và dễ hiểu.
  • Văn bản quy phạm pháp luật cần nêu rõ cụ thể nội dung cần điều chỉnh, tránh sự mơ hồ hoặc lặp lại những nội dung đã được quy định trong các văn bản pháp luật khác.
  • Cấu trúc của văn bản quy phạm pháp luật có thể bao gồm các phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản và điểm, với điều kiện mỗi phần, chương, mục, tiểu mục, điều phải được đặt tên cụ thể. Các văn bản không nên bao gồm chương riêng biệt về thanh tra, khiếu nại, tố cáo, khen thưởng hoặc xử lý vi phạm nếu không có thêm nội dung mới.
  • Ủy ban Thường vụ Quốc hội đặt ra quy định về thể thức và kỹ thuật trình bày cho văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cũng như Chủ tịch nước ban hành.
  • Chính phủ đưa ra quy định về thể thức và kỹ thuật trình bày cho văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền khác, theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

>>> Xem thêm: Khoá học soạn thảo hợp đồng

Mời bạn xem thêm:

Câu hỏi thường gặp:

Chính phủ ban hành những văn bản quy phạm pháp luật nào?

Theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, đã được sửa đổi vào năm 2020, văn bản quy phạm pháp luật được định nghĩa là loại văn bản chứa các quy phạm pháp luật, phát hành theo đúng quyền hạn, hình thức, quy trình, và thủ tục như quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, bản sửa đổi 2020.
Cơ cấu và quyền hạn ban hành các loại văn bản pháp luật cụ thể được quy định tại Điều 4 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 và Điều 1 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi 2020.
Trong đó, Chính phủ được ủy quyền để ban hành loại văn bản quy phạm pháp luật được gọi là ‘Nghị định’. Ngoài ra, Chính phủ còn có quyền hợp tác với Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để ban hành loại văn bản quy phạm pháp luật được biết đến với tên gọi ‘Nghị quyết liên tịch’.

Chính phủ ban hành nghị định để quy định những vấn đề gì?

Theo Điều 9 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, Chính phủ được quyền ban hành nghị định để quy định các vấn đề sau:
Điều, khoản, và điểm cụ thể trong luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, và quyết định của Chủ tịch nước mà được giao thực hiện.
Biện pháp chi tiết để tổ chức thực hiện Hiến pháp, các luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, và quyết định của Chủ tịch nước. Điều này bao gồm các chính sách về kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh, tài chính-tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học-công nghệ, môi trường, đối ngoại, cũng như quản lý công vụ, cán bộ, công chức, viên chức, và quyền, nghĩa vụ của công dân. Đồng thời, nó cũng bao gồm vấn đề liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền quản lý của Chính phủ.
Vấn đề cần thiết thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhưng chưa sẵn sàng để xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, kinh tế, xã hội. Trước khi ban hành loại nghị định này, cần phải có sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ

5/5 - (1 bình chọn)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết liên quan

.
.
.
Sơ đồ bài viết