Tài liệu hướng dẫn tự học môn Triết học Mác Lê Nin là nguồn tài nguyên hữu ích cho những ai muốn nghiên cứu và tìm hiểu sâu về triết học Mác – Lênin. Với nội dung được biên soạn khoa học và dễ hiểu, tài liệu này giúp người học nắm vững các khái niệm cốt lõi, lý thuyết quan trọng, và các nguyên lý triết học cơ bản. Đây là công cụ không thể thiếu để học viên tự tin hơn trong việc học tập và ôn luyện, đồng thời đạt kết quả cao trong các kỳ thi liên quan.
Tài liệu hướng dẫn tự học môn Triết học Mác Lê Nin
Câu 1: Triết học là gì? Phân tích vấn đề cơ bản của triết học?
1. Khái niệm triết học:
“Triết” theo nguyên chữ Hán có nghĩa là trí (bao gồm sự hiểu biết sâu rộng về vũ trụ và nhân sinh), theo chữ Hy Lạp là “yêu mến sự thông thái”. Khái niệm “triết học” có những biến đổi nhất định trong lịch sử, nhưng lúc nào cũng bao hàm: yếu tố nhận thức (sự hiểu biết về vũ trụ, về con người và sự giải thích bằng hệ thống tư duy) và yếu tố nhận định (đánh giá về đạo lý để con người có thái độ và hành động).
Theo quan điểm mácxít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội; là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại, của nhận thức và của thái độ con người đối với thế giới; là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Đặc điểm nổi bật của triết học là cách nhìn chung về thế giới, là sự nghiên cứu thế giới xét như một chỉnh thể, cho nên tri thức triết học trước hết là những tri thức phổ quát. Từ cách xem xét đó, triết học có vai trò giải thích bản chất, nguyên nhân và những quy luật phát triển của thế giới; vừa có vai trò vạch ra con đường, những phương tiện để nhận thức và cải tạo thế giới.
Triết học chỉ xuất hiện khi có hai điều kiện: Về mặt nhận thức, triết học xuất hiện khi năng lực tư duy trừu tượng của con người đạt đến trình độ nhất định, cho phép họ tổng kết và khái quát những tri thức riêng lẻ thành hệ thống quan niệm, quan điểm chung. Về mặt xã hội, triết học xuất hiện khi sản xuất vật chất của loài người phát triển đến trình độ làm nảy sinh quá trình phân công lao động trí óc và lao động chân tay; nhưng quá trình phân công lao động này trong thực tế chỉ diễn ra khi lịch sử nhân loại bước vào giai đoạn có phân chia giai cấp.
2. Vấn đề cơ bản của triết học
Theo Ăngghen, vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, hay là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vấn đề này có hai mặt:
– Mặt thứ nhất, đó là vấn đề giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước? cái nào quyết định cái nào? Tùy theo cách giải quyết vấn đề này mà triết học chia thành hai trào lưu chính: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật cho rằng bản chất của thế giới là vật chất, nên vật chất có trước, tồn tại độc lập với ý thức và quyết định ý thức; còn ý thức là thuộc tính, là sự phản ánh vật chất. Chủ nghĩa duy vật trải qua nhiều giai đoạn phát triển với năm hình thức lịch sử cơ bản: duy vật cổ đại (mộc mạc, chất phác), duy vật tầm thường thế kỷ V-XV, duy vật cơ học máy móc thế kỷ XVII-XVIII, duy vật siêu hình thế kỷ XIX và duy vật mác-xít (biện chứng).
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức (tinh thần) là bản chất của thế giới, nên ý thức là cái có trước và quyết định vật chất; còn vật chất là cái có sau, là sự “biểu hiện” của ý thức. Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản: duy tâm chủ quan (coi ý thức là bản chất của thế giới, nhưng đó là ý thức của con người nằm trong con người) và duy tâm khách quan (cũng coi ý thức là bản chất của thế giới, nhưng đó là một thực thể tinh thần tồn tại bên ngoài con người và độc lập với con người).
Nguồn gốc của chủ nghĩa duy vật: là sự phát triển của tri thức, của khoa học; là lợi ích và cuộc đấu tranh của các giai cấp, các lực lượng xã hội tiến bộ, cách mạng ở mỗi giai đoạn phát triển của lich sử. Nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm: là sự tuyệt đối hóa một hình thức hay một giai đoạn của quá trình nhận thức dẫn đến tách nhận thức và ý thức khỏi thế giới hiện thực khách quan; thông thường là lợi ích và sự phản kháng của các giai cấp, các lực lượng bảo thủ trước tiến bộ xã hội.
– Mặt thứ hai, là vấn đề về khả năng nhận thức của con người.
Toàn bộ các nhà triết học duy vật và đa số những nhà triết học duy tâm đều thừa nhận rằng thế giới có thể nhận thức được. Nhưng các nhà duy vật cho rằng, nhận thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan trong bộ óc con người. Còn các nhà duy tâm thì cho rằng, nhận thức chỉ là sự ý thức về bản chất ý thức.
Trả lời vấn đề này còn có những nhà triết học theo nguyên tắc bất khả tri (không thể biết). Những người này xuất phát từ việc tuyệt đối hóa tính tương đối của tri thức dẫn đến phủ nhận khả năng nhận thức của con người.
– Bên cạnh những nhà triết học nhất nguyên (duy vật và duy tâm) giải thích thế giới từ một bản nguyên, hoặc vật chất hoặc tinh thần, còn có những nhà triết học nhị nguyên luận. Nhị nguyên luận cho rằng thế giới được sinh ra từ hai bản nguyên độc lập với nhau, bản nguyên vật chất sinh ra các hiện tượng vật chất, bản nguyên tinh thần sinh ra các hiện tượng tinh thần. Nhị nguyên luận thể hiện lập trường dung hòa giữa duy vật và duy tâm, đó chỉ là khuynh hướng nhỏ trong lịch sử triết học và trong cuộc đấu tranh triết học nó càng trở nên gần với chủ nghĩa duy tâm.
Câu 2: Phân tích sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng
– Phương pháp triết học là phương pháp nhận thức thế giới nói chung, là hệ thống những nguyên tắc dùng để nghiên cứu thế giới xét như một chỉnh thể. Trong lịch sử triết học có hai phương pháp cơ bản đối lập nhau: phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng.
Thuật ngữ “siêu hình” (metaphysics), đầu tiên được Aristote dùng để chỉ bộ phận quan trọng nhất trong hệ thống triết học của mình. Theo đó, nó được hiểu là học thuyết về những gì vượt ra ngoài giới hạn của “kinh nghiệm”, về những đối tượng đằng sau các sự vật hữu hình. Vì vậy, cho đến thời Phục hưng người ta vẫn coi siêu hình học đồng nghĩa với triết học. Đến thế kỷ XVII-XVIII, sự phát triển của khoa học tự nhiên đòi hỏi phải phân chia giới tự nhiên thành những lĩnh vực riêng biệt để nghiên cứu. Chính cách nghiên cứu ấy đã đem lại cho các nhà khoa học một thói quen, xét sự vật và quá trình trong trạng thái cô lập ở ngoài mối liên hệ, vận động và phát triển của chúng. Khi cách xem xét này được các nhà duy vật đưa vào triết học thì nó đã tạo ra phương pháp siêu hình. Như vậy, thuật ngữ “phương pháp siêu hình” được dùng để chỉ phương pháp triết học đặc trưng cho chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII. Phương pháp siêu hình là cách xem xét thế giới trong sự cô lập tác biệt lẫn nhau hoặc không vận động, hoặc không phát triển, hoặc vận động và phát triển theo chu kỳ khép kín.
Thuật ngữ “biện chứng” (dialectics), đầu tiên được Platon dùng để chỉ một nghệ thuật trong tranh luận, theo đó nó được hiểu là những thủ đoạn biện bác chủ quan. Tuy vậy ở thời cổ đại đã có những tư tưởng biện chứng khách quan (triết học Hêraclít), nhưng vẫn còn mang tính tự phát và chưa trở thành hệ thống. Đến thế kỷ XVIII, những tư tưởng biện chứng được phục hồi và được xây dựng thành hệ thống, đặc biệt là ở trong các học thuyết của những nhà triết học duy tâm cổ điển Đức. Từ lúc này những tư tưởng biện chứng mới hợp thành một phương pháp triết học đối lập với phương pháp siêu hình. Đến giữa thế kỷ XIX, khái quát hiện thực xã hội, tổng kết những thành quả lý luận và khoa học, Mác và Ăngghen xây dựng lại phương pháp biện chứng trên lập trường duy vật đã sáng tạo ra phương pháp biện chứng mácxít. Phương pháp biện chứng là cách xem xét thế giới trong mối liên hệ phổ biến quy định ràng buộc nhau và luôn vận động và luôn phát triển.
– Sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng diễn ra trong cách giải quyết mọi vấn đề triết học, song có thể khái quát ở những nội dung chính sau đây:
Thứ nhất: Phương pháp siêu hình xem xét thế giới trong trạng thái cô lập của các sự vật hiện tượng; cái này được xét tách rời cái kia mà không thừa nhận rằng giữa chúng có sự ràng buộc lẫn nhau. Vì vậy phương pháp siêu hình chỉ nhìn thấy tính cá biệt mà không nắm được mối liên hệ, thấy được sự khác biệt mà không nắm được sự thống nhất giữa các sự vật hiện tượng; chỉ thấy cái bộ phận, cái đơn nhất, cái riêng mà không nắm được cái toàn thể, cái phổ biến, cái chung. Trái lại, phương pháp biện chứng xem xét thế giới trong mối liên hệ, ràng buộc giữa các yếu tố của nó và với cái khác. Vì vậy, phương pháp biện chứng nhìn nhận sự vật toàn diện hơn, thấy được cả sự khác biệt và sự thống nhất giữa các sự vật, hiện tượng, nắm được cả cải bộ phận và cái toàn thể, cái đơn nhất và cái phổ biến, cái riêng và cái chung.
Thứ hai: Phương pháp siêu hình xem xét thế giới trong trạng thái tĩnh; sự vật hiện tượng chỉ được xét như cái gì ổn định nằm ngoài sự vận động và phát triển của chúng. Cách xem xét này cho phép phương pháp siêu hình nắm được tính xác định và ổn định của sự vật, hiện tượng, nhưng mặt khác cũng dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng: đó là quan điểm phủ nhận sự vận động, phát triển của thế giới; là quan điểm cho rằng thế giới có sự tăng giảm về lượng, sự lặp lại, mà không có sự chuyển hóa về chất, không có sự xuất hiện cái mới thay thế cái cũ, cái lạc hậu. Vì vậy phương pháp siêu hình không thể vạch ra được bản chất thật sự của mọi sự vật, hiện tượng; không vạch ra được nguồn gốc, động lực, quy luật và xu hướng vận động phát triển của chúng. Trái lại, phương pháp biện chứng xem xét thế giới trong trạng thái vận động, chuyển hóa không ngừng; sự vật, hiện tượng nào cũng được xét như một quá trình, trong sự tự vận động, tự phát triển của nó. Thừa nhận sự phát triển, phương pháp biện chứng cho rằng: không chỉ có sự tăng giảm về lượng mà còn có sự phát triển về chất; có sự ra đời của cái mới thông qua phủ định cái cũ; nguồn gốc, động lực của mọi sự phát triển là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập của sự vật, hiện tượng. Nhờ cách xem xét ấy, phương pháp biện chứng, vạch ra được bản chất đích thực của sự vật, hiện tượng; nắm bắt được nguồn gốc và động lực bên trong của mọi sự vận động, phát triển.
Vì vậy, Lênin nhận xét rằng chỉ có quan điểm biện chứng về sự phát triển là sâu sắc, sinh động và chỉ có phép biện chứng mới là chìa khóa để nghiên cứu sự phát triển.
Tuy nhiên, không được tuyệt đối hóa phép biện chứng mà phủ nhận vai trò của phép siêu hình. Trong thực tế, có những mối liên hệ, có những mặt, có những lúc đặc biệt lại rất cần đến phép siêu hình.
Câu 3: Trình bày những tiền đề ra đời của triết học Mác-Lênin
* Tiền đề kinh tế-xã hội
Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, thời kỳ mà chủ nghĩa tư bản đã trở thành hệ thống kinh tế thống trị ở các nước Tây Âu và giai cấp vô sản đã bước lên vũ đài lịch sử như một lực lượng chính trị độc lập.
Mác nhận xét rằng, đến thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản đã trở thành một cơ thể hoàn chỉnh, làm bộc lộ đầy đủ các mâu thuẫn trong bản chất của nó. Trước hết là mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất có tính chất xã hội với quan hệ sản xuất có tính chất tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn này biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn xung đột giữa lao động với tư bản, giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản cùng với các mâu thuẫn của nó, đã tạo ra một cơ sở hiện thực cho những phân tích và khái quát lý luận trong học thuyết của Mác và Ăngghen.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản cùng với các mâu thuẫn của nó kéo theo sự phát triển của phong trào công nhân. Đến cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, phong trào công nhân ở các nước Tây Âu đã có bước phát triển mới về số lượng và chất lượng. Sự tập trung tư bản cùng với sự hình thành những trung tâm công nghiệp lớn thu hút công nhân thành lực lượng đông đảo, mâu thuẫn giữa lao động và tư bản trở nên gay gắt làm xuất hiện những cuộc đấu tranh chính trị ngày càng có tổ chức và tự giác. Các cuộc khởi nghĩa của công nhân ở Xilêdi (Đức), ở Liông và Pari (Pháp), phong trào Hiến chương (Anh) vào những năm 30-40 chứng minh rằng: giai cấp công nhân trở thành lực lượng quyết định các quá trình kinh tế-xã hội-chính trị của thời đại và bước lên vũ đài lịch sử như một lực lượng chính trị độc lập. Phong trào công nhân thời kỳ này làm bộc lộ sai lầm của quan niệm tư sản về sự hân hoan chung giữa lao động và tư sản, tạo nên những thay đổi căn bản trong quan niệm về lịch sử của Mác và Ăngghen; mặt khác, nó đề ra nhu cầu giải thích về những thực tế của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản về tổ chức, con đường và phương tiện cách mạng của giai cấp vô sản. Chủ nghĩa Mác ra đời đã đáp ứng những đòi hỏi này.
Những phân tích và khái quát lý luận về sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và phong trào công nhân vào nửa đầu thế kỷ XIX là một bộ phận quan trọng trong học thuyết của Mác và Ăngghen. Vì vậy, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và phong trào công nhân thời kỳ đó là những điều kiện kinh tế-xã hội cho sự ra đời của triết học.
* Tiền đề lý luận
– Sự ra đời của triết học Mác trước hết có kế thừa những thành quả của triết học cổ điển Đức. Mác và Ăngghen luôn thừa nhận rằng trong sự phát triển trí tuệ của mình, hai ông đã chịu ơn nhiều nhà triết học Đức, trong đó nổi bật là Hêghen và Phoiơbắc.
Công lao to lớn của Hêghen là ở chỗ: Ông đã phê phán những hạn chế cơ bản của phương pháp siêu hình, đã xây dựng phép biện chứng thành hệ thống và xem nó là phương pháp luận đúng đắn của mọi nhận thức khoa học. Nhưng Mác và Ăngghen cũng chỉ ra rằng, triết học Hêghen có những hạn chế lớn, đó là sự giải thích duy tâm về hiện thực; là sự biện hộ cho những thực tế lịch sử lỗi thời, cho tôn giáo; là triết học tự biện, trừu tượng, xa rời hiện thực và thực tiễn. Cho nên khi sáng lập triết học của mình Mác và Ăngghen đã không kế thừa toàn bộ triết học Hê-ghen mà chỉ kế thừa hạt nhân hợp lý, đó là phép biện chứng, đồng thời cải tạo và xây dựng lại phép biện chứng trên lập trường duy vật.
Đánh giá về Phoiơbắc, Mác và Ăngghen cho rằng chính nhờ đọc được các tác phẩm của ông mà họ đã cương quyết đoạn tuyệt với triết học Hêghen. Công lao của Phoiơbắc là ở sự phê phán quyết liệt chủ nghĩa duy tâm-tôn giáo (nhất là phê phán Hê-ghen), là sự khẳng định cương quyết tính đúng đắn của các nguyên lý duy vật, là việc giải thích trên lập trường duy vật bản chất con người, bản chất tôn giáo và đề cao chủ nghĩa nhân đạo. Nhưng Phoiơbắc cũng có những hạn chế lớn, đó là phương pháp tư duy siêu hình, (khi phê phán Hêghen, ông đã không thấy được phép biện chứng là hạt nhân hợp lý nên đã bác bỏ và chuyển sang quan điểm siêu hình); quan điểm trực quan, trừu tượng, phi lịch sử về bản chất con người, duy tâm trong lĩnh vực xã hội. Vì vậy khi sáng lập ra triết học của mình, Mác và Ăngghen cũng không kế thừa toàn bộ triết học Phoiơbắc mà chỉ kế thừa hạt nhân cơ bản đúng đắn đó là nguyên lý duy vật, đồng thời cải tạo và xây dựng lại chủ nghĩa duy vật dựa trên quan điểm biện chứng.
– Sự ra đời triết học Mác không chỉ do ảnh hưởng của triết học Hêghen và triết học Phoiơbắc. Mác và Ăngghen khi tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đã rút ra những tài liệu thực tiễn phong phú cho những kết luận duy vật-biện chứng của mình. Ngoài ra, việc hai ông đi sâu nghiên cứu kinh tế-chính trị học cổ điển và chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán, đã góp phần không nhỏ cho sự hình thành và hoàn thiện thế giới quan triết học của mình.
* Tiền đề khoa học tự nhiên
Sự ra đời triết học Mác còn được chuẩn bị bởi những thành quả của khoa học tự nhiên. Những thành quả của khoa học tự nhiên từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX làm bộc lộ những hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình, ngày càng chứng minh tính đúng đắn của các nguyên lý duy vật và biện chứng.
Phát hiện bằng thực nghiệm của Maye (được Lômônôxốp công bố) về sự bảo toàn vật chất và vận động, lý luận của Cantơ về sự hình thành thái dương hệ đã góp phần khẳng định quan điểm biện chứng về lịch sử vũ trụ và giới tự nhiên: mặt khác đả phá quan niệm duy tâm, tôn giáo siêu hình về thế giới.
Từ những năm 30 đến 50 của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã có những thành tựu to lớn. Thời kỳ này có ba phát minh vĩ đại đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống quan điểm siêu hình và chuẩn bị cho sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX phát minh ra quy luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. Quy luật này chứng minh rằng: lực cơ học, nhiệt, ánh sáng, điện, từ các quá trình hóa học, nghĩa là các hình thức khác nhau của vận động vật chất không tách rời nhau, mà liên hệ và chuyển hóa lẫn nhau nên không hề mất đi. Nó chứng minh rằng không có sự sinh ra và mất đi của năng lượng, mà chỉ có sự chuyển hóa năng lượng từ dạng này sang dạng khác. Như vậy quy luật này là cơ sở khoa học tự nhiên cho quan điểm biện chứng về thế giới.
Vào những năm 30 của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã phát minh ra học thuyết cấu tạo tế bào của cơ thể sống. Học thuyết này bác bỏ quan niệm siêu hình về sự khác biệt tuyệt đối giữa thực vật và động vật. Ngược lại, nó khẳng định sự thống nhất về nguồn gốc và hình thái giữa thực vật và động vật, giải thích quá trình phát triển của chúng, đặt cơ sở cho quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển của toàn hệ sinh học.
Phát minh lớn thứ ba là học thuyết tiến hóa của sinh giới ra đời vào những năm 50 của thế kỷ XIX. Học thuyết tiến hóa chứng minh rằng sinh giới không phải là bất biến mà thường xuyên biến đổi, nằm trong quá trình tiến hóa không ngừng của giới tự nhiên. Nó khẳng định sự tiến hóa của sinh giới diễn ra theo con đường chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân tạo. Lênin đánh giá rằng thuyết tiến hóa đánh dấu sự cáo chung của quan niệm siêu hình về tính bất biến của các loài và quan niệm về nguồn gốc thần thánh của sinh giới đem lại cơ sở thật sự khoa học cho sinh học. Mác và Ăngghen xác nhận rằng thuyết tiến hóa đem lại cái cơ sở lịch sử tự nhiên cho học thuyết của hai ông, đã đập tan thần học trong học thuyết về sự phát triển của thực vật và động vật; rằng trước đó chưa hề có một sự chứng minh nào thành công to lớn như thế về sự phát triển lịch sử trong giới tự nhiên.
Như vậy, những thành tựu của khoa học tự nhiên nửa đầu thế kỷ XIX cũng là tiền đề cho các quan điểm duy vật và biện chứng về thế giới của Mác và Ăngghen.
Câu 4: Vì sao nói sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học?
Khái quát hiện thực xã hội, kinh nghiệm của phong trào công nhân và những thành tựu của khoa học tự nhiên, nghiên cứu có phê phán những tư tưởng triết học trước đó, Mác và Ăngghen đã sáng tạo ra triết học của mình, thực hiện một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học. Điều đó thể hiện ở những nội dung sau đây:
– Triết học Mác ra đời lần đầu tiên đem lại cho giai cấp vô sản một hệ tư tưởng; một lý luận dẫn đường thực hiện bước giải phóng giai cấp vô sản về mặt tinh thần. Mác cho rằng, nếu trái tim của sự giải phóng nhân loại là giai cấp vô sản, thì khối óc sự giải phóng đó là triết học của giai cấp vô sản, là thế giới quan của nó. Triết học Mác là vũ khí lý luận chung cấp cho giai cấp vô sản những công cụ nhận thức và cải tạo thế giới, cho nên Mác viết: “giống như triết học tìm thấy ở giai cấp vô sản là một vũ khí vật chất, giai cấp vô sản tìm thấy ở triết học là một vũ khí tinh thần”. Như vậy, với sự ra đời ở triết học Mác, phong trào vô sản đã có một bước ngoặt, từ chỗ là một phong trào tự phát, chưa có lý luận, bị lệ thuộc vào tư tưởng, nó trở thành một phong trào tự giác, có lý luận và độc lập về tư tưởng.
– Với sự ra đời của triết học Mác, lần đầu tiên thực tiễn trở thành phạm trù trung tâm của triết học. Điều đó làm biến đổi tận gốc vai trò xã hội của triết học và khắc phục được những thiếu sót căn bản của triết học trước kia. Trung tâm chú ý của triết học Mác không chỉ là giải thích, mà còn và chủ yếu là vạch ra con đường, những phương tiện cải tạo thế giới bằng thực tiễn cách mạng. Đối với triết học Mác thì thực tiễn có vai trò quyết định mọi sự phát triển xã hội, khoa học và cả triết học. Không một nhà triết học nào trước Mác hiểu được vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận và đối với toàn bộ lịch sử nhân loại. Vì hạn chế đó, các nhà duy vật trước Mác đã rơi vào quan điểm duy tâm siêu hình khi đề cập đến những vấn đề xã hội. Chủ nghĩa duy tâm phản ánh lợi ích của giai cấp thống trị bảo thủ, cho nên nó xa rời thực tiễn, tách khỏi hiện thực, làm cho quần chúng không thấy được những cơ sở vật chất của các quan hệ bóc lột.
Chỉ ra vai trò quyết định của thực tiễn, Mác và Ăngghen cũng luôn nhấn mạng vai trò to lớn của hoạt động tinh thần, của lý luận. Vì vậy hai ông đã phát triển học thuyết cân đối về mối liên hệ giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng. Lý luận cách mạng có vai trò chỉ đạo thực tiễn, làm cho thực tiễn từ tự phát thành thực tiễn cách mạng, tự giác. Khi lý luận cách mạng thâm nhập vào quần chúng sẽ đem lại cho họ những hiểu biết quy luật của đời sống xã hội, hướng dẫn họ thực hiện một cách tự giác những nhiệm vụ của cuộc đấu tranh thực tiễn, lúc đó trở thành sức mạnh vật chất.
Là thế giới quan và phương pháp luận của giai cấp vô sản, triết học Mác có sự thống nhất sâu sắc giữa tính Đảng, tính cách mạng và tính khoa học. Triết học Mác là sự phản ánh lợi ích của giai cấp vô sản và nhân dân lao động; đồng thời nó là lý luận cho cuộc đấu tranh của họ nhằm xóa bỏ mọi chế độ người bóc lột người, đưa nhân loại lên chủ nghĩa cộng sản. Đó là tính Đảng, tính cách mạng của triết học Mác không đối lập với tính khoa học của nó. Khi phản ánh lợi ích của giai cấp vô sản và phục vụ cho cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa cộng sản, triết học Mác phản ánh đúng yêu cầu và những quy luật khách quan của lịch sử.
Sự ra đời của triết học Mác cũng là sự sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật. Đây là những hình thức cao của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, khắc phục những thiếu sót căn bản của triết học trước kia. Trước Mác chủ nghĩa duy vật thì siêu hình, còn phép biện chứng thì lại gắn với lập trường duy tâm, như vậy chúng tách rời, thậm chí đối lập nhau, chỉ khi triết học Mác ra đời mới có sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, tạo ra một triết học phát triển cao hơn về chất so với trước đó.
– Sự ra đời triết học Mác cũng là sự sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đây là biểu hiện rõ rệt nhất của cuộc cách mạng triết học do Mác và Ăngghen thực hiện. Chỉ khi chủ nghĩa duy vật lịch sử xuất hiện thì chủ nghĩa duy vật nói chung mới trở thành triệt để. Nó không chỉ khắc phục lập trường duy tâm về xã hội trong triết học trước đó, mà còn là cơ sở lý luận về phương pháp luận khoa học cho toàn bộ xã hội học, cho hoạt động thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân và đảng của nó.
– Sự ra đời triết học Mác làm thay đổi căn bản tính chất của triết học, đối tượng và mối quan hệ của nó với các khoa học khác. Truyền thống trước đó, triết học được coi là khoa học của mọi khoa học, hòa lẫn hoặc tách rời với các khoa học cụ thể khác. Triết học Mác không hòa lẫn vào các khoa học cụ thể mà cũng không tách rời chúng. Trong sự hình thành và phát triển của mình, triết học Mác không chỉ dựa trên sự khái quát thực tiễn xã hội, mà còn dựa trên sự khái quát của những thành tựu khoa học cụ thể (cả tự nhiên và xã hội). Khoa học cụ thể cung cấp những tài liệu hết sức phong phú cho triết học Mác nghiên cứu các quy luật chung nhất của hiện thực khách quan. Đồng thời triết học Mác cung cấp những hiểu biết về các quy luật chung nhất của hiện thực khách quan sẽ giúp cho các khoa học cụ thể nghiên cứu có hiệu quả các quy luật đặc thù.
Câu5: Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin và ý nghĩa khoa học của định nghĩa này.
Tiếp thu tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, trên cơ sở khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, về mặt triết học trên cơ sở phê phán những quan điểm duy tâm và siêu hình về vật chất, Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau:
* Nội dung định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” (V.I.Lênin toàn tập, T.18, NXB Tiến bộ, Matxcơva, 1980, tr.151).
* Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
Trong định nghĩa trên, chúng ta cần phân tích những nội dung chủ yếu sau đây:
a. “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan…”
– “Vật chất” là một phạm trù khái quát nhất, rộng nhất của lý luận nhận thức.
+ Phạm trù vật chất phải được xem xét dưới góc độ của triết học, chứ không phải dưới góc độ của các khoa học cụ thể. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh được sai lầm khi đồng nhất phạm trù vật chất trong triết học với các khái niệm vật chất thường dùng trong các khoa học cụ thể hoặc đời sống hằng ngày.
+ Không thể định nghĩa phạm trù vật chất theo phương pháp thông thường. Về mặt nhận thức luận, Lênin chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan hệ với phạm trù đối lập của nó, đó là phạm trù ý thức (phương pháp định nghĩa thông qua cái đối lập với nó). (Xem thêm chương khái niệm ở giáo trình Lôgic hình thức)
Khi định nghĩa vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, Lênin đã bỏ qua những thuộc tính riêng lẻ, cụ thể, nhiều màu, nhiều vẻ của các sự vật, hiện tượng, mà nêu bật đặc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất có ở tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực khách quan. Đó là đặc tính “tồn tại với tư cách là thực tại khách quan”, tồn tại ở ngoài ý thức con người và độc lập với ý thức. Đặc tính này là dấu hiệu cơ bản để phân biệt vật chất với cái không phải là vật chất.
– Tính trừu tượng của phạm trù vật chất: Phạm trù vật chất khái quát đặc tính chung nhất của mọi khách thể vật chất xét trong quan hệ với ý thức nên về hình thức nó là cái trừu tượng. Vì thế, không được đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của nó giống như quan niệm của các nhà duy vật trước Mác.
b. Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác.
Trong phần này, Lênin đã giải quyết được những điều sau đây:
– Thứ nhất, Lênin đã giải quyết được mối quan hệ giữa tính trừu tượng và tính hiện thực cụ thể cảm tính của phạm trù vật chất. Vật chất không phải tồn tại vô hình, thần bí mà tồn tại một cách hiện thực, được biểu hiện cụ thể dưới dạng các sự vật, hiện tượng cụ thể mà các giác quan của chúng ta có thể nhận biết một cách trực tiếp hay gián tiếp.
– Thứ hai, Lênin đã giải quyết được mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Thực tại khách quan đưa lại cảm giác cho con người, chứ không phải cảm giác (ý thức) sinh ra thực tại khách quan. Điều đó có nghĩa là, vật chất là cái có trước và đóng vai trò quyết định, nội dung khách quan của ý thức.
c. Thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Đến đây, Lênin đã khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới hiện thực khách quan. Tức là Lênin đã giải quyết được mặt thứ hai của vấn đề cơ bản triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
* Ý nghĩa của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
– Giải quyết một cách đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường chủ nghĩa duy vật và biện chứng.
– Khắc phục được những quan niệm trực quan, siêu hình, máy móc về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác và những biến tướng của nó trong trào lưu triết học tư sản hiện đại.
– Chống lại tất cả các quan điểm duy tâm và tạo ra căn cứ vững chắc để nghiên cứu xã hội.
– Khẳng định thế giới vật chất là khách quan và vô cùng, vô tận, luôn luôn vận động và phát triển không ngừng nên nó đã có tác dụng định hướng, cổ vũ các nhà khoa học khi sâu vào nghiên cứu thế giới vật chất, để ngày càng làm phong phú thêm kho tàng tri thức của nhân loại.
Câu 6: Phân tích nguồn gốc và bản chất của ý thức?
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức của con người là sản phẩm của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử-xã hội. Do đó, muốn hiểu được nguồn gốc và bản chất của ý thức, cần phải xem xét trên cả mặt tự nhiên và xã hội.
I. Nguồn gốc ý thức:
1. Nguồn gốc tự nhiên:
a. Ý thức là thuộc tính phản ánh của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người.
– Phản ánh là thuộc tính chung của vật chất. Phản ánh đó là năng lực giữ lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác và ngược lại. Nó được thực hiện trong sự tác động qua lại giữa các hệ thống vật chất.
– Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn chỉnh đến ngày càng hoàn thiện hơn.
+ Phản ánh của giới vô sinh. Phản ánh này đơn giản, thụ động, không có chọn lọc.
+ Trên cơ sở phản ánh của thế giới vô sinh xuất hiện một hình thức phản ánh mới cao hơn về chất, đó là phản ánh của giới hữu sinh. Hình thức phản ánh này gắn liền với quá trình chuyển hóa từ giới vô sinh qua giới hữu sinh. Hình thức này có quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao: kích thích, cảm ứng, tâm lý sơ cấp của động vật và cùng với quá trình vượn biến thành người, phản ánh của động vật cấp cao chuyển hóa thành phản ánh ý thức của con người.
Như vậy, ta thấy rằng các dạng vật chất có trình độ tiến hóa càng cao thì sự phản ánh càng cao; ý thức chỉ xuất hiện cùng với sự xuất hiện dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não của con người, chứ không phải với mọi dạng vật chất; ý thức chỉ là thuộc tính phản ánh của vật chất, do đó, không được đồng nhất vật chất với ý thức và cũng không được tách ý thức ra khỏi vật chất.
b. Khách thể vật chất bên ngoài
Bộ não con người với tư cách là hệ thống phản ánh. Vì vậy, muốn có ý thức thì phải có sự tác động của khách thể vật chất bên ngoài vào bộ não của con người.
Thế nhưng, tại sao con vật cũng có sự tác động của khách thể vật chất bên ngoài lên bộ não của nó mà lại không có ý thức? Sở dĩ như vậy là vì khác với tâm lý động vật, ý thức con người ngoài nguồn gốc tự nhiên còn có nguồn gốc xã hội.
2. Nguồn gốc xã hội.
Sự ra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của bộ não con người dưới ảnh hưởng của lao động và ngôn ngữ.
a. Lao động:
– Lao động là phương thức tồn tại cơ bản đầu tiên của con người, là hoạt động đặc thù của con người, làm cho con người khác với tất cả các động vật khác.
+ Trong lao động, con người đã biết chế tạo ra các công cụ lao động và sử dụng các công cụ đó để tạo ra của cải vật chất.
+ Lao động là hành động có mục đích, tác động vào thế giới khách quan nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người. Do đó, ý thức con người phản ánh một cách tích cực, chủ động và sáng tạo.
– Trong quá trình lao động, bộ não con người phát triển và ngày càng hoàn thiện, làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người cũng ngày càng phát triển.
– Lao động ngay từ đầu đã liên kết mọi thành viên trong xã hội với nhau, làm nảy sinh ở họ nhu cầu giao tiếp. Vì vậy, ngôn ngữ ra đời và không ngừng phát triển cùng với lao động.
b. Ngôn ngữ:
– Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai, là “vỏ vật chất” của tư duy, là phương tiện, là công cụ để con người giao tiếp trong xã hội, phản ánh khái quát sự vật, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và trao đổi chúng giữa các thế hệ.
– Ý thức là một hiện tượng xã hội, do đó, nếu không có ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được.
– Chính vì vậy, Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng: “Sau lao động, đồng thời với lao động là ngôn ngữ,.. đó là hai sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não của loài vật thành bộ não của con người, tâm lý động vật thành ý thức” (Ph.Ăngghen: Biện chứng của tự nhiên, NXB Sự thật, Hà Nội,1974, tr. 257)
II. Bản chất của ý thức:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn, nên bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo, tích cực và chủ động về thế giới khách quan. Đó chính là sự khác biệt rất cơ bản của ý thức con người so với tâm lý động vật và sự “suy nghĩ” của máy móc.
Phản ánh của ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn quy định. Song, sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của sự phản ánh, trong khuôn khổ và theo tính chất của quy luật phản ánh.
Con người khác với động vật là thông qua hoạt động thực tiễn có mục đích, có định hướng, tác động vào sự vật, hiện tượng trong thế giới, buộc chúng phải bộc lộ đặc tính, kết cấu, quy luật lao động để phản ánh và nhận thức. Khi con người nhận thức được quy luật, thì con người vận dụng tri thức đó vào việc cải biến thế giới khách quan nhằm phục vụ cho cuộc sống của mình.
Câu 7: Phân tích quan điểm của triết học Mác-Lênin về vận động của vật chất.
a. Vận động là gì?
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là mọi sự biến đổi nói chung.
b. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
Vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà nó biểu hiện sự tồn tại của mình. Nói cách khác, không thể có vật chất mà không có vận động.
Vận động của vật chất là tự thân vận động. Vật chất không do ai sáng tạo ra và nó không thể bị tiêu diệt, mà vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, nên vận động cũng không do ai sáng tạo ra và không thể bị tiêu diệt. Nếu một hình thức vận động nào đó của một sự vật nhất định mất đi thì tất yếu sẽ nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế, nghĩa là các hình thức vận động của vật chất chỉ chuyển hóa lẫn nhau mà thôi, chứ vận động của vật chất thì vĩnh viễn tồn tại cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất.
c. Các hình thức vận động cơ bản của vật chất:
Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph.Ăngghen đã phân chia vận động thành năm hình thức cơ bản: vận động cơ học, vận động lý học, vận động hóa học, vận động sinh học và vận động xã hội. Vận động xã hội là hình thức có trình độ cao nhất.
Mỗi hình thức vận động nói trên, có trình độ cao thấp khác nhau. Do đó, chúng ta sẽ phạm sai lầm nếu quy hình thức vận động cao vào hình thức vận động thấp và ngược lại.
Tuy có sự khác nhau về chất, nhưng giữa các hình thức vận động có sự liên hệ, tác động chuyển hóa qua lại. Thông qua sự liên hệ, chuyển hóa phổ biến của mọi hình thức vận động trong vũ trụ mà vận động vật chất được bảo toàn.
Những dạng vật chất phức tạp như cơ thể sống, xã hội loài người bao hàm nhiều hình thức vận động trong sự liên hệ tác động qua lại, nhưng bao giờ cũng được đặc trưng bởi một hình thức vận động cơ bản xác định. Ví dụ, trong cơ thể sống bao gồm các hình thức vận động cơ học, lý học, hóa học, sinh học, song hình thức vận động sinh học là hình thức đặc trưng cơ bản quy định sự khác nhau giữa cơ thể sống với những dạng vật chất khác.
d. Vận động và đứng im.
Trong khi coi vận động là thuộc tính bên trong vốn có của vật chất, chủ nghĩa duy vật không phủ nhận sự đứng im, mà coi đứng im như một trường hợp riêng của vận động. Không có đứng im tương đối thì không thể hình thành các sự vật, hiện tượng riêng lẻ, cụ thể.
Vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối. Đứng im là tương đối bởi vì:
– Hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi quan hệ cùng một lúc.
– Đứng im chỉ xảy ra đối với một hình thức vận động trong một lúc nào đó, chứ không phải đối với tất cả mọi hình thức vận động trong cùng một lúc.
– Đứng im chỉ là biểu hiện của một trạng thái vận động: vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối, khi nó còn là nó mà chưa chuyển thành cái khác.
– Vận động tuyệt đối. Do đó, nó làm cho sự vật, hiện tượng không ngừng biến đổi, làm cho sự đứng im tương đối luôn luôn bị phá vỡ. Đứng im chỉ là tạm thời vì: vận động cá biệt có xu hướng trở thành cân bằng, vận động toàn bộ lại có xu hướng phá vỡ sự cân bằng riêng biệt đó.
Tóm lại, vận động là tuyệt đối, vĩnh viễn, đứng im là tương đối, tạm thời, vật chất không thể nào tồn tại như thế nào khác ngoài cách vận động và vật chất đang vận động đó không thể vận động như thế nào khác ngoài vận động trong không gian và thời gian, vật chất vận động là vô tận nên không gian và thời gian vật chất cũng vô tận.
Câu 8: Phân tích quan điểm của triết học Mác-Lênin mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận.
Khi bàn đến vấn đề này, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định:
1. Vật chất có trước ý thức, sinh ra ý thức và quyết định ý thức:
– Vật chất tồn tại khách quan và không phụ thuộc vào ý thức, còn ý thức là thuộc tính phản ánh của một dạng vật chất có tổ chức cao (bộ óc người).
– Vật chất là nguồn gốc, động lực và mục đích của ý thức.
– Trong đời sống xã hội thì tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
Khi khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng đồng thời cũng vạch rõ sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất.
2. Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất.
– Sự phản ánh của ý thức là sự phản ánh tích cực, chủ động và sáng tạo.
– Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn.
– Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai khuynh hướng:
+ Khi ý thức phản ánh đúng quy luật khách quan thì nó đóng vai trò thúc đẩy sự vận động và phát triển của thế giới hiện thực khách quan. Trong trường hợp này ý thức giúp cho con người xác định đúng đắn mục tiêu, phương hướng, biện pháp tổ chức hoạt động thực tiễn một cách có hiệu quả.
+ Khi ý thức phản ánh không đúng quy luật khách quan thì lúc này nó sẽ làm kìm hãm sự vận động và phát triển của những điều kiện vật chất nhất định.
Hiệu quả của sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất thuộc vào các điều kiện sau:
+ Những điều kiện vật chất cần thiết cho ý thức đó thực hiện.
+ Trình độ phản ánh của ý thức đó đối với vật chất, nếu ý thức phản ánh càng đầy đủ, càng chính xác bao nhiêu thì hiệu quả tác động của nó càng cao bấy nhiêu.
+ Mức độ xâm nhập của ý thức đó vào trong quần chúng nhân dân, mức độ xâm nhập của ý thức càng lớn thì hiệu quả tác động của nó càng cao.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
– Nếu vật chất là nguồn gốc khách quan, là cơ sở sản sinh ra ý thức; còn ý thức là sản phẩm, là sự phản ánh thế giới khách quan thì trong nhận thức và hành động, con người phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, chống lại chủ nghĩa chủ quan duy ý chí.
– Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn. Do đó, cần phải phát huy tính tích cực của ý thức đối với vật chất bằng cách nâng cao năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận động chúng vào trong hoạt động thực tiễn của con người. Sức mạnh ý thức của con người không phải ở chỗ tách rời điều kiện vật chất mà là biết dựa vào đó, phản ánh đúng quy luật khách quan để cải tạo thế giới khách quan.
– Chúng ta phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như thái độ tiêu cực, thụ động.
Xuất phát từ ý nghĩa đó, Đảng ta đã chỉ rõ một trong những điều kiện cơ bản để đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của mình là phải “luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”, (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 1986, tr.30)
Câu 9: Phân tích nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và rút ra ý nghĩa phương pháp luận
– Phép siêu hình không thừa nhận mối liên hệ phổ biến của thế giới. Theo quan điểm này, sự vật hiện tượng trong thế giới về cơ bản không có sự liên hệ, ràng buộc, quy định lẫn nhau. Cho nên đối với phép siêu hình, thế giới chỉ là một tập hợp rời rạc các sự vật cô lập nhau. Cách nhìn ấy không cho phép chúng ta vạch ra cái chung, cái bản chất và quy luật của các sự vật hiện tượng.
– Trái với quan điểm siêu hình, phép biện chứng duy vật thừa nhận mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng trong thế giới và coi đó là nguyên lý cơ bản của nó. Khái niệm liên hệ nói lên sự quy định, ảnh hưởng, ràng buộc, tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và quá trình. Phép biện chứng duy vật phát biểu rằng: mọi sự vật, hiện tượng quá trình muôn vẻ trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến với nhau, không có cái gì tồn tại biệt lập với cái khác. Điều đó là dễ hiểu, vì vật chất tồn tại thông qua vận động, mà vận động cũng là liên hệ. Ăngghen viết: “tất cả thế giới mà chúng ta có thể nghiên cứu được, là một hệ thống, một tập hợp các vật thể khăng khít với nhau… Việc các vật thể có liên hệ qua lại với nhau đã có ý nghĩa là các vật thể này tác động lẫn nhau và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận động”.
Như vậy phép biện chứng duy vật thừa nhận liên hệ diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi sự vật và quá trình của hiện thực, nó có tính khách quan, xuất phát từ tính thống nhất vật chất của thế giới. Phép biện chứng duy vật cũng chỉ ra rằng, liên hệ của thế giới rất đa dạng, bởi thế giới bao gồm vô số sự vật hiện tượng muôn vẻ khác nhau. Tùy theo tính chất, vai trò, phạm vi của liên hệ mà người ta phân thành nhiều loại: liên hệ bên trong và liên hệ bên ngoài, liên hệ cơ bản và không cơ bản, liên hệ không gian và thời gian, liên hệ trực tiếp và gián tiếp… Sự phân loại các liên hệ này chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi vì mỗi loại liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt khâu của mối liên hệ phổ biến của thế giới xét như một chỉnh thể. Tuy nhiên, sự phân loại các liên hệ là cần thiết, vì rằng vị trí của từng mối liên hệ trong việc quy định sự vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng không như nhau.
Sự phân loại các liên hệ còn là cơ sở để xác định phạm vi nghiên cứu của phép biện chứng duy vật và của các ngành khoa học cụ thể. Những hình thức riêng biệt, cụ thể của từng mối liên hệ thuộc phạm vi nghiên cứu của từng ngành khoa học cụ thể, còn phép biện chứng duy vật nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất, phổ biến nhất của thế giới. Vì thế, Ăngghen viết: “phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến”.
– Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến có ý nghĩa phương pháp luận to lớn đối với hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Nếu các sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến và nhiều vẻ, thì muốn nhận thức và tác động vào chúng, phải có quan điểm toàn diện, khắc phục quan điểm phiến diện, một chiều. Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta khi phân tích sự vật phải đặt nó trong mối liên hệ với sự vật hiện tượng khác; phải xem xét tất cả các mặt, các yếu tố, kể cả khâu trung gian, gián tiếp của chúng. Chỉ có như vậy, chúng ta mới nắm bắt được một cách đầy đủ bản chất của sự vật, tránh được những kết luận phiến diện chủ quan, vội vàng.
Tuy nhiên quan điểm toàn diện không có nghĩa là cách xem xét cào bằng, tràn lan mà phải thấy được tính chất, vị trí của từng mối liên hệ, từng mặt, từng yếu tố trong tổng thể của chúng. Như vậy, quan điểm toàn diện bao hàm quan điểm lịch sử cụ thể. Quan điểm này đòi hỏi, phải xét sự vật trong từng liên hệ cụ thể của nó, gắn với những tính chất, vị trí cụ thể của mối liên hệ cụ thể đó; phải biết phân loại các liên hệ của sự vật để nắm lấy cái cơ bản, cái có tính quy luật của nó; đồng thời phải xét cả những điều kiện cụ thể của sự vật trong đó xuất hiện từng liên hệ quy định từng tính chất và xu hướng cụ thể của nó. Từ đó mà tìm ra những phương thức cụ thể để tác động đến sự vật.
Câu 10: Phân tích nội dung của nguyên lý về sự phát triển và rút ra ý nghĩa phương pháp luận
– Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thống nhất hữu cơ với nguyên lý về sự phát triển, bởi vì liên hệ tức là vận động, mà không có vận động thì không có sự phát triển. Nhưng “vận động” và “phát triển” là hai khái niệm khác nhau. Khái niệm “vận động” khái quát mọi sự biến đổi nói chung, không tính đến xu hướng và kết quả của những biến đổi ấy như thế nào. Sự vận động diễn ra không ngừng trong thế giới và có nhiều xu hướng.
Khái niệm “phát triển” không khái quát mọi sự biến đổi nói chung; nó chỉ là khái quát những vận động đi lên, cái mới ra đời thay thế cho cái cũ. Tiêu chuẩn để xác định sự phát triển là có xuất hiện “cái mới” trong những biến đổi của sự vật hiện tượng. Sự phát triển trong thế giới theo các chiều hướng cơ bản sau: phát triển về trình độ (từ thấp đến cao), phát triển về cấu trúc (từ đơn giản đến phức tạp), phát triển về bản chất (từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn). Sự phân biệt đó về các chiều hướng chỉ là tương đối, một sự phát triển thường bao hàm cả các chiều hướng này.
– Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng sự phát triển, đổi mới là hiện tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy, mà nguồn gốc của nó là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật và hiện tượng. Nhưng không nên hiểu sự phát triển bao giờ cũng diễn ra một cách đơn giản, theo đường thẳng. Xét từng trường hợp cá biệt, thì có những vận động đi lên, tuần hoàn, thậm chí đi xuống, nhưng xét cả quá trình, trong phạm vi rộng lớn thì vận động đi lên là khuynh hướng thống trị. Khái quát tình hình trên đây, phép biện chứng duy vật khẳng định rằng, phát triển là khuynh hướng chung của sự vận động của sự vật và hiện tượng.
– Quan điểm biện chứng xác định nguồn gốc bên trong của mọi sự phát triển. Cho nên thế giới phát triển là tự thân phát triển, là quá trình bao hàm mâu thuẫn và thường xuyên giải quyết mâu thuẫn, vừa liên tục vừa có gián đoạn; là quá trình bao hàm sự phủ định cái cũ và ra đời cái mới. Sự phát triển như là vận động đi lên ra đời cái mới, nhưng cái mới không đoạn tuyệt với cái cũ mà kế thừa tất cả những gì tích cực của cái cũ. Tất cả những điều đó nói lên tính chất phức tạp của sự phát triển, nhưng bao giờ cũng theo khuynh hướng đi lên.
– Đối lập với quan điểm trên đây của phép biện chứng; phép siêu hình nói chung phủ nhận sự phát triển, tuyệt đối hóa tính ổn định của các sự vật hiện tượng. Nếu có thừa nhận sự phát triển, thì phép siêu hình cho rằng đó chỉ là sự tăng giảm về lượng, sự lặp lại mà không có chuyển hóa về chất, không có sự ra đời cái mới thay thế cho cái cũ. Lênin nhận xét rằng, quan niệm siêu hình là cứng nhắc, nghèo nàn, khô khan, chỉ có quan niệm biện chứng là sinh động, mới cho ta chìa khóa của “sự tự vận động” của tất thảy mọi cái đang tồn tại, của những “bước nhảy vọt” và “sự gián đoạn của tính tiệm tiến”, của sự “chuyển hóa thành mặt đối lập”, của “sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới”. Cũng vì vậy mà ông nhấn mạnh rằng, phép biện chứng là học thuyết “hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện về sự phát triển”.
– Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển, giúp cho chúng ta nhận thức rằng, muốn thực sự nắm được bản chất của sự vật hiện tượng, nắm được quy luật và xu hướng của chúng phải có quan điểm phát triển, khắc phục tư tưởng bảo thủ trì trệ.
Quan điểm này yêu cầu khi phân tích sự vật phải xét nó như một quá trình; đặt nó trong sự vận động, sự phát triển mới nắm được quy luật và những xu hướng của nó. Quan điểm phát triển còn bao hàm yêu cầu xét sự vật trong từng giai đoạn cụ thể của nó nhưng không được tách rời với các giai đoạn khác mà phải liên hệ chúng với nhau mới có thể nắm được logic của toàn bộ tiến trình vận động sự vật. Quan điểm phát triển cũng đòi hỏi tinh thần lạc quan tích cực trong thực tiễn, khắc phục mọi sụ trì trệ bảo thủ.
Câu 11: Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập – ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật này trong hoạt động thực tiễn.
I. Nội dung quy luật:
– Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn) là quy luật quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật, là “hạt nhân của phép biện chứng”. Bởi vì nó vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát triển.
– Khái quát nội dung quy luật:
Mọi sự vật, hiện tượng đều bao hàm mâu thuẫn bên trong. Mỗi sự vật, hiện tượng đều là thống nhất của các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau. Chính sự đấu tranh của các mặt đối lập đó làm cho sự vật, hiện tượng vận động, phát triển.
– Phân tích nội dung quy luật:
1. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến.
– “Mặt đối lập”?
Mặt đối lập là những mặt có khuynh hướng thay đổi, phát triển chống đối nhau, trái ngược nhau trong một chỉnh thể làm nên sự vật hiện tượng.
Mỗi sự vật, hiện tượng có thể có nhiều yếu tố, nhiều mặt,.. cấu thành, nhưng có hai mặt đối lập cơ bản thống nhất với nhau quyết định kết cấu tạo thành sự vật, hiện tượng.
-“Mâu thuẫn”?
“Mâu thuẫn” là khái niệm để chỉ sự liện hệ và tác động lẫn nhau của các mặt đối lập trong một sự vật, hiện tượng nhất định.
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, vì mâu thuẫn tồn tại trong bản thân sự vật, hiện tượng.
Mâu thuẫn tồn tại phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy (mâu thuẫn trong tư duy là sự phản ánh mâu thuẫn của hiện thực khách quan).
2. Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau.
– Trong một mâu thuẫn, hai mặt đối lập vừa có quan hệ thống nhất với nhau, vừa đấu tranh lẫn nhau.
– Khái niệm “thống nhất” trong quy luật biểu hiện: Các mặt đối lập liên hệ ràng buộc với nhau, quy định lẫn nhau và làm tiền đề tồn tại của nhau.
Khái niệm “thống nhất” trong quy luật này còn được hiểu là sự “đồng nhất”, nghĩa là cũng thừa nhận trạng thái ổn định của mối liên hệ của các mặt đối lập. Đồng thời cũng thừa nhận sự chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối lập.
– Khái niệm “đấu tranh” của các mặt đối lập có nghĩa là các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau, phủ định lẫn nhau. Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp. Quá trình đó có thể chia ra nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm riêng của nó. (Xem S.1)
Hệ thống sự vật, hiện tượng mới
Sự vật, hiện tượng (hệ thống cũ)
S.1 Quá trình phát triển của một mâu thuẫn.
– Về mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Lênin viết: “Sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển sự vận động là tuyệt đối” (V.I.Lênin toàn tập, T.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.379 – 380). Sự thống nhất của các mặt đối lập có tính chất tạm thời, thoáng qua, tương đối, cũng như trạng thái đứng im của sự vật, bởi vì mọi sự vật, hiện tượng cụ thể đều có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong để nhường chỗ cho các sự vật, hiện tượng khác cao hơn, hoàn thiện hơn, mới hơn về chất ra đời.
Đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối vì: trong mọi sự vật hiện tượng đều có mâu thuẫn và mâu thuẫn quán xuyến từ đầu đến cuối quá trình phát triển của sự vật. Tính tuyệt đối của sự đấu tranh của các mặt đối lập nói lên sự vận động, sự biến đổi liên tục của sự vật, hiện tượng. Đấu tranh của các mặt đối lập là điều kiện quan trọng nhất, có tính quyết định đối với sự chuyển hóa của các mặt đối lập.
– Đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
3. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập.
– Sự chuyển hóa của các mặt đối lập là kết quả của quá trình đấu tranh của các mặt đối lập.
– Sự chuyển hóa của các mặt đối lập được thực hiện ở giai đoạn chín muồi của mâu thuẫn. Sự chuyển hóa diễn ra dưới nhiều hình thức và tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể.
Hai hình thức khái quát nhất của sự chuyển hóa là:
+ Các mặt đối lập chuyển sang mặt đối lập của chính mình.
+ Các mặt đối lập cũ bị xóa bỏ và hình thành các mặt đối lập mới trong sự vật mới.
4. Phân loại mâu thuẫn
Thế giới phong phú, đa dạng và phức tạp, nhưng nhìn chung có 4 loại mâu thuẫn cơ bản:
Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài: Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính, các quá trình cấu thành nên sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn này giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng. Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các sự vật hiện tượng, hoặc giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính, các quá trình giữa sự vật, hiện tượng với nhau. Mâu thuẫn này không giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Nó chỉ có tác dụng ảnh hưởng khi liên hệ được với mâu thuẫn bên trong.
Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản: Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn phát sinh, hình thành, tồn tại cùng sự phát sinh, hình thành, tồn tại của vật, hiện tượng và giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn phát sinh, hình thành, tồn tại cùng sự phát sinh, hình thành, tồn tại của vật, hiện tượng và không giữ vai trò quyết định mà chỉ ảnh hưởng nhất định đến sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng.
Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu: Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu và giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng ở mỗi giai đoạn phát triển. Mâu thuẫn không chủ yếu là mâu thuẫn phát sinh và không giữ vai trò quyết định nhưng gây ảnh hưởng nhất định đến sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng ở mỗi giai đoạn phát triển.
Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng (loại mâu thuẫn này chỉ có trong lĩnh vực đời sống xã hội): Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Mâu thuẫn này chỉ được giải quyết thông qua cách mạng xã hội. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai tầng có lợi ích cơ bản không đối lập nhau. Mâu thuẫn này được giải quyết bằng phương pháp hòa bình thông qua giáo dục và đổi mới xã hội.
II. Ý nghĩa phương pháp luận:
– Quy luật mâu thuẫn đem lại phương pháp khoa học cho việc xem xét và giải quyết các vấn đề: phương pháp phân tích và giải quyết mâu thuẫn.
– Phải thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn. Yêu cầu này đòi hỏi chúng ta, muốn nắm được bản chất của sự vật, hiện tượng cần phải biết phân tích các mặt đối lập của mâu thuẫn.
– Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể và phải có biện pháp cụ thể để giải quyết đối với từng loại mâu thuẫn.
– Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn: Bất kỳ mâu thuẫn nào, bất kỳ giai đoạn nào của mâu thuẫn, cũng chỉ được giải quyết bằng con đường đấu tranh giữa các mặt đối lập, chứ không phải bằng con đường điều hòa giữa chúng.
Câu 12: Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật này trong hoạt động thực tiễn.
I. Nội dung quy luật:
Mỗi sự vật, hiện tượng là sự thống nhất giữa hai mặt: chất lượng (chất) và số lượng (lượng). Từ những thay đổi dần dần về lượng dẫn sẽ đến những thay đổi về chất và ngược lại; là cách thức của sự vận động và phát triển.
1. Khái niệm chất và lượng
a. Khái niệm chất:
– Chất là tính quy định vốn có của các sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật, nói lên sự vật đó là gì, phân biệt nó với các sự vật và hiện tượng khác.
– Phân biệt chất với tính cách là phạm trù triết học với chất hiểu theo khái niệm thường dùng hàng ngày hoặc với khái niệm chất liệu.
– Phân biệt chất với thuộc tính. Mỗi chất gồm nhiều thuộc tính.
– Mỗi sự vật, hiện tượng có thể có một hoặc nhiều chất tuy theo những mối quan hệ xác định
– Chất tồn tại khách quan.
– Chất biểu hiện tình trạng tương đối ổn định của sự vật, hiện tượng.
– Trong những trường hợp đặc biệt, chất là cái trừu tượng và dường như nằm ngoài sự vật, hiện tượng.
b. Khái niệm lượng
– Lượng là tính quy định của sự vật, hiện tượng về mặt qui mô, trình độ, tốc độ phát triển của nó, biểu thị bằng các con số, các thuộc tính, các yếu tố,.. cấu thành nó.
– Lượng không chỉ biểu hiện bằng các con số, các đại lượng xác định cụ thể, mà lượng còn được nhận thức bằng khả năng trừu tượng hóa.
– Lượng là nhân tố quy định bên trong, nhưng đồng thời cũng có những lượng chỉ nói lên nhân tố dường như bên ngoài sự vật.
– Lượng tồn tại khách quan.
– So với chất, lượng là cái thường xuyên biến đổi.
* Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối.
2. Tính thống nhất và mối quan hệ phổ biến của lượng và chất.
a. Khái niệm “Độ”
Mỗi sự vật là một thể thống nhất của hai mặt chất và lượng. Hai mặt đó không tách rời nhau, mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng.
– “Độ” là khái niệm nói lên mối quan hệ quy định lẫn nhau của chất và lượng. Nó là giới hạn mà trong đó sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó mà chưa biến thành cái khác. Trong giới hạn “độ” lượng biến đổi nhưng chưa dẫn đến chuyển hóa về chất.
– Độ cũng biến đổi khi những điều kiện tồn tại của sự vật, hiện tượng biến đổi.
b. Những hình thức biến đổi từ lượng dẫn đến sự biến đổi về chất.
Ranh giới của lượng do chất quy định, nhưng sự chuyển hóa thì bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Các hình thức cơ bản của sự chuyển hóa:
+ Tăng lên hoặc giảm đi đơn thuần về mặt số lượng
+ Sự dung hợp của nhiều lực lượng thành một hợp lực về căn bản khác với tổng số những lực lượng cá biệt.
+ Thay đổi về kết cấu, tổ chức, qui mô của sự vật, hiện tượng.
– Khi lượng thay đổi vượt quá giới hạn của độ thì dẫn đến thay đổi về chất. Sự thay đổi về chất được gọi là bước nhảy (có 4 loại bước nhảy cơ bản: bước nhảy toàn phần, bước nhảy cục bộ, bước nhảy dần dần, bước nhảy đột biến), đó là bước ngoặt căn bản trong sự biến đổi dần dần về lượng.
– Giới hạn mà ở đó xảy ra bước nhảy được gọi là điểm nút.
– Sự chuyển hóa đòi hỏi phải có điều kiện.
c. Ảnh hưởng của chất mới đối với sự biến đổi của lượng
Khi chất mới ra đời nó tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có một sự thống nhất mới giữa chất và lượng. Sự quy định này được biểu hiện ở qui mô và nhịp điệu phát triển mới của lượng.
Tóm lại, quy luật lượng-chất chỉ ra cách thức biến đổi sự vật, hiện tượng. Đó là quá trình tác động lẫn nhau giữa hai mặt: chất và lượng. Lượng biến đổi mâu thuẫn với chất cũ, chất mới ra đời với lượng mới. Lượng mới lại tiếp tục biến đổi đến giới hạn nào đó lại phá vỡ chất đang kìm hãm nó, tạo nên chất mới với lượng mới. Như vậy phát triển là quá trình vô hạn, vừa mang tính liên tục (biểu hiện ở sự biến đổi của lượng) vừa có tính gián đoạn (biểu hiện ở sự thay đổi về chất).
II. Ý nghĩa phương pháp luận:
– Sự vận động và phát triển là kết quả của quá trình tích lũy về lượng. Trong hoạt động thực tiễn cần chống lại hai khuynh hướng:
+ Tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, chưa có sự tích lũy đầy đủ về lượng đã muốn thực hiện bước nhảy về chất. Hoặc chỉ nhấn mạnh đến bước nhảy, xem nhẹ tích lũy về lượng, dẫn đến các hành động phiêu lưu mạo hiểm.
+ Tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ngại khó không dám thực hiện bước nhảy về chất. Hoặc chỉ nhấn mạnh đến sự biến đổi dần dần về lượng, từ đó rơi vào chủ nghĩa cải lương và tiến hóa luận.
– Cần có thái độ khách quan, khoa học và có quyết tâm thực hiện bước nhảy khi điều kiện thực hiện bước nhảy đã chín muồi.
+ Cần phân biệt các bước nhảy trong tự nhiên và trong xã hội.
+ Phải nhận thức đúng đắn các bước nhảy khác nhau về qui mô, nhịp độ.
+ Chống chủ nghĩa giáo điều
Câu 13: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật này trong hoạt động thực tiễn.
Quy luật phủ định của phủ định vạch rõ xu hướng đi lên của sự vật, hiện tượng trong quá trình vận động, phát triển.
1. Phủ định biện chứng:
– “Phủ định”: là khái niệm nói lên quá trình vận động của sự vật, hiện tượng. Trong đó sự vật, hiện tượng này thay thế cho sự vật, hiện tượng khác.
– “Phủ định biện chứng”: là phủ định mà trong đó cái mới ra đời thay thế cho cái cũ. Cái mới làm tiền đề, tạo điều kiện cho sự phát triển của sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng duy vật cho rằng: sự diệt vong của cái cũ và sự ra đời của cái mới, sự thoái hóa và sự phát triển có liên hệ nội tại với nhau. Không có mặt này cũng không có mặt kia.
“Phủ định trong phép biện chứng không chỉ có ý nghĩa đơn giản là nói không hoặc giả là tuyên bố rằng một sự vật không tồn tại, hay phá hủy sự vật ấy theo một cách nào đó… Cho nên phải thiết lập sự phủ định thứ nhất như thế nào cho sự phủ định lần thứ hai vẫn có khả năng thực hiện được hay trở thành có khả năng thực hiện được” (Ăngghen “Chống Đuy-rinh”, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 230-321).
– Đặc trưng của phủ định biện chứng:
Thứ nhất: Tính khách quan
Thứ hai: Tính kế thừa
Phủ định biện chứng là kết quả của sự tự thân phát triển trên cơ sở những mâu thuẫn vốn có của sự vật và hiện tượng nên nó không thể là một sự phủ định tuyệt đối, một sự phủ định sạch trơn.
Phép biện chứng duy vật coi sự kế thừa là nội dung cơ bản của phủ định biện chứng.
2. Nội dung quy luật:
Tất cả mọi sự vật, hiện tượng đều luôn luôn vận động, phát triển, quá trình đó cũng là quá trình phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập. Khuynh hướng tất yếu của sự vận động là: cái mới thay thế cho cái cũ, cái mới làm tiền đề tạo điều kiện cho sự phát triển của sự vật, hiện tượng. Nhưng sự phát triển có tính chu kỳ.
a. Tính chu kỳ của sự phát triển:
Từ một điểm xuất phát (A) qua một số lần phủ định biện chứng (B(n)) sự vật dường như lặp lại điểm xuất phát (A’) nhưng trên cơ sở cao hơn.
┤A → B(n) →A’├ →
– Sự phủ định biện chứng lần thứ nhất (B) là bước trung gian trong sự phát triển. Trình độ mới của (A) phải qua (B) mà được thực hiện chứ không phải (B) là giai đoạn cao hơn (A).
– Sự phủ định biện chứng lần thứ hai (A’) là phủ định của phủ định.
– (A’) là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển mới.
– Để hoàn thành một chu kỳ phát triển, sự vật hiện tượng phải trải qua ít nhất hai lần phủ định biện chứng.
b. Hình thức và khuynh hướng của sự phát triển:
Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính tất yếu tiến lên của sự vận động của sự vật và hiện tượng. Sự phát triển đi lên đó không diễn ra theo con đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”.
Lênin viết: “Một sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua nhưng dưới một hình thức khác ở một trình độ cao hơn (phủ định của phủ định), một sự phát triển có thể nói là theo đường xoáy ốc chứ không theo đường thẳng (Lênin toàn tập, T.26, Nxb Tiến bộ, Maatsxcơva, 1981, tr.65).
– “Đường xoáy ốc” biểu hiện các mặt của quá trình phát triển biện chứng: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên của sự vận động.
– “Đường xoáy ốc” thể hiện tính phức tạp trong quá trình biến đổi, phủ định của sự vật. Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc thể hiện tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
– Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu rằng quá trình phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà rất quanh co, phức tạp, phải trải qua nhiều lần phủ định biện chứng, nhiều khâu trung gian.
– Là cơ sở lý luận để hiểu về sự ra đời của cái mới: trong thực tiễn xã hội, các quá trình diễn ra phức tạp, nhưng cái cũ nhất định sẽ mất đi, cái mới nhất định sẽ xuất hiện. Cái mới ra đời trên cơ sở kế thừa những yếu tố tích cực của cái cũ. Phải biết phát hiện cái mới, duy trì và phát triển cái mới.
– Phải có cách nhìn biện chứng khi phê phán cái cũ, kế thừa những yếu tố hợp lý của cái cũ. Tránh nhìn đơn giản trong việc nhận thức các sự vật, hiện tượng, đặc biệt là các hiện tượng xã hội. Cần chống lại hai khuynh hướng: kế thừa không chọn lọc hoặc phủ định sạch trơn.
Câu 14: Phân tích nội dung cặp phạm trù cái chung và cái riêng, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận
1. Khái niệm cái chung, cái riêng, cái đơn nhất.
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ giống nhau ở nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định.
Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà không lặp lại ở kết cấu khác.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng cả cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan và quan hệ biện chứng với nhau.
– Cái chung thì tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Điều đó có nghĩa là cái chung thực sự tồn tại, nhưng chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Không có cái chung thuần túy, trừu tượng tồn tại bên ngoài cái riêng.
– Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung, bao hàm cái chung. Điều đó cho thấy là cái riêng tồn tại độc lập nhưng sự tồn tại độc lập đó không có nghĩa là cái riêng hoàn toàn cô lập với cái khác mà bất cứ cái riêng nào cũng nằm trong mối liên hệ đưa tới cái chung. Cái riêng không những chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung mà thông qua hàng nghìn sự chuyển hóa, nó còn liên hệ với cái riêng loại khác.
– Cái chung là bộ phận của cái riêng, còn cái riêng không gia nhập hết vào cái chung vì vậy cái riêng phong phú hơn cái chung. Bởi ngoài những đặc điểm gia nhập vào cái chung, cái riêng còn giữ lại những đặc điểm riêng biệt mà chỉ nó mới có. Trong khi đó, cái chung phải là cái sâu sắc hơn vì nó phản ánh những mối liên hệ ở bên trong, phổ biến tồn tại trong cái riêng cùng loại, nó gắn liến với các cái riêng, quy định sự tồn tại và phát triển của sự vật.
– Trong quá trình phát triển khách quan của sự vật, trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất có thể biến thành cái chung và ngược lại cái chung có thể biến thành cái đơn nhất. Sỡ dĩ có tình trạng này là do trong hiện thực cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay trong một lúc mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng đơn nhất cá biệt. Nhưng theo quy luật, cái mới nhất định sẽ phát triển mạnh lên, ngày càng trở nên hoàn thiện tiến tới trở thành cái chung. Ngược lại, cái cũ ngày càng mất dần đi từ chỗ là cái chung biến dần thành cái đơn nhất.
– Trong phạm vi khái quát của con người, cái được xem là cái chung trong quan hệ này lại có thể được xem là cái riêng, cái đơn nhất trong quan hệ khác.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
– Không được tuyệt đối hóa cái chung hay cái riêng mà phải thấy được mối quan hệ biện chứng giữa chúng. Nếu tuyệt đối hóa cái chung thì sẽ dẫn đến giáo điều chủ nghĩa, rập khuôn một cách máy móc. Ngược lại nếu tuyệt đối hóa cái riêng thì sẽ dẫn đến chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tập thể phường hội, địa phương chủ nghĩa và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.
– Trong nhận thức và thực tiễn để phát hiện cái chung cần phải xuất phát từ những cái riêng, từ những sự vật, hiện tượng quá trình riêng lẻ cụ thể chứ không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của chủ thể, và để giải quyết những vấn đề riêng một cách có hiệu quả thì không lảng tránh việc giải quyết những vấn đề chung, để tránh tình trạng sa vào mò mẫm tùy tiện.
– Trong hoạt động thực tiễn cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho cái đơn nhất chuyển hóa thành cái chung nếu cái đơn nhất đó có lợi, và cũng phải tạo điều kiện để cái chung chuyển hóa thành cái đơn nhất nếu cái chung đó là lạc hậu.
Câu 15: phân tích nội dung cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận.
1. Khái niệm nguyên nhân và kết quả:
– Nguyên nhân là phạm trù triết học chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định.
– Kết quả là phạm trù triết học chỉ là những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
– Phân biệt nguyên nhân và nguyên cớ, nguyên nhân và điều kiện:
+ Nguyên cớ là một sự kiện nào đó trực tiếp xảy ra trước kết quả, có liên hệ với kết quả nhưng chỉ là liên hệ bên ngoài không bản chất.
+ Điều kiện: Đó là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân nhưng lại có tác dụng biến khả năng chứa đựng trong nguyên nhân thành kết quả, thành hiện thực. Vì vậy, điều kiện là cái không thể thiếu được cho sự xuất hiện kết quả.
2. Tính khách quan và phổ biến của mối quan hệ nhân quả:
– Tính khách quan:
Thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó cho thấy vật chất đang vận động quy đến cùng là nguyên nhân duy nhất, là nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng, quá trình. Và mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có căn cứ của nó trong những sự vật, hiện tượng, quá trình khác. Cho nên không có sự vật hiện tượng nào không có nguyên nhân mà chỉ có chúng ta chưa tìm ra nguyên nhân của hiện tượng đó, và cũng không có một hiện tượng nào không sinh ra kết quả mà chỉ có chúng ta chưa tìm ra được kết quả của nó.
– Tính phổ biến:
Tính phổ biến của quan hệ nhân quả thể hiện ở chỗ mọi sự vật và hiện tượng đều nảy sinh từ những sự vật hiện tượng khác. Trong đó cái sản sinh ra cái khác được gọi là nguyên nhân và cái được sinh ra gọi là kết quả.
3. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả
– Nguyên nhân sinh ra kết quả vì vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân, khi nguyên nhân đã xuất hiện, đã bắt đầu tác động.
Tuy nhiên không phải mọi sự nối tiếp nhau về mặt thời gian của các sự vật hiện tượng cũng là biểu hiện của mối liên hệ nhân quả. Cái để phân biệt quan hệ nhân quả với quan hệ nối tiếp nhau về mặt thời gian là ở chỗ quan hệ nhân quả bao giờ cũng là quan hệ sản sinh, trong đó nguyên nhân phải sản sinh ra kết quả.
– Trong hiện thực, mối quan hệ nhân quả biểu hiện hết sức phức tạp. Một kết quả thường không phải do một nguyên nhân mà do nhiều nguyên nhân gây ra; đồng thời một nguyên nhân cũng có thể sản sinh ra nhiều kết quả. Vì sự phối hợp tác động của nhiều nguyên nhân đòi hỏi phải phân tích tính chất, vai trò của mỗi loại nguyên nhân đối với kết quả cũng như sự liên hệ ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nguyên nhân và phân loại các nguyên nhân.
+ Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì có xu hướng dẫn đến kết quả nhanh hơn. Nếu các nguyên nhân tác động ngược chiều thì làm cho tiến trình hình thành kết quả chậm lại. Thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau.
+ Phân loại nguyên nhân:
* Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu:
Nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân mà không có nó thì kết quả không thể xuất hiện. Nó quyết định những đặc trưng tất yếu của sự vật, hiện tượng. Nguyên nhân thứ yếu là nguyên nhân chỉ quyết định những mặt, những đặc điểm nhất thời, tác động có giới hạn và có mức độ vào việc sản sinh ra kết quả.
* Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài: Nguyên nhân bên trong là nguyên nhân tác dụng ngay bên trong sự vật, được chuẩn bị và xuất hiện trong tiến trình phát triển của sự vật, phù hợp với đặc điểm về chất của nó. Nguyên nhân bên ngoài là sự tác động giữa các sự vật khác nhau đem lại sự biến đổi nhất định giữa các sự vật đó.
– Tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân và sự chuyển hóa của nguyên nhân-kết quả:
Mối liên hệ nhân quả có tính chất tác động qua lại lẫn nhau trong đó không những nguyên nhân sinh ra kết quả mà kết quả còn tác động trở lại đối với nguyên nhân đã sinh ra nó, làm cho những nguyên nhân cũng biến đổi bởi vì nguyên nhân sinh ra kết quả bao giờ cũng là một quá trình. Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân chính là sự ảnh hưởng thường xuyên lẫn nhau giữa nguyên nhân và kết quả, gây nên sự biến đổi giữa chúng. Nguyên nhân và kết quả thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau, nên “cái bây giờ ở đây là kết quả thì ở chỗ khác, lúc khác lại trở thành nguyên nhân và ngược lại”.
Trong thế giới vô tận, nguyên nhân sinh ra kết quả, đến lượt nó kết quả chuyển hóa thành nguyên nhân mới sinh ra kết quả mới,.. là vô tận. Chính vì thế, trong thế giới ta không thể chỉ ra được đâu là nguyên nhân đầu tiên và đâu là kết quả cuối cùng.
4. Ý nghĩa phương pháp luận:
– Mối quan hệ nhân quả đã vạch rõ nguồn gốc của các hiện tượng cụ thể, riêng biệt vì vậy là cơ sở để đánh giá kết quả của sự nhận thức thế giới, hiểu rõ con đường phát triển của khoa học, khắc phục tính hạn chế của các lý luận hiện có và là công cụ lý luận cho hoạt động thực tiễn để cải tạo tự nhiên và xã hội.
– Hiện tượng nào cũng có nguyên nhân, nên muốn hiểu đúng một hiện tượng thì phải tìm hiểu nguyên nhân xuất hiện của nó hoặc muốn xóa bỏ một hiện tượng thì phải xóa bỏ nguyên nhân sản sinh ra nó.
– Nếu nguyên nhân chỉ sinh ra kết quả trong những điều kiện nhất định thì phải nghiên cứu điều kiện để thúc đẩy hay kìm hãm sự ra đời của kết quả. Phải có quan điểm toàn diện và cụ thể khi nghiên cứu hiện tượng chứ không được vội vàng kết luận về nguyên nhân của hiện tượng đó.
Câu 16: Phân tích nội dung cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận.
1. Khái niệm tất nhiên và ngẫu nhiên:
– Tất nhiên (tất yếu) là cái do bản chất, do những nguyên nhân bên trong của sự vật, hiện tượng quyết định và trong những điều kiện nhất định, nó phải xảy ra như thế, chứ không thể khác.
– Ngẫu nhiên là cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong quyết định mà nó là ngẫu hợp của hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó, nó có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này hoặc như thế khác.
2. Điểm giống nhau và khác nhau giữa tất nhiên và ngẫu nhiên.
a. Khác nhau:
Tất nhiên là cái do chính bản chất của quá trình quyết định. Ngẫu nhiên là cái không do bản chất của quá trình quy định một cách trực tiếp, không bắt buộc phải có với quá trình đó.
b. Giống nhau:
Tất nhiên và ngẫu nhiên đều phản ánh những mối liên hệ đặc biệt về chất của thế giới khách quan mà những mối liên hệ này không nằm trong phạm trù khác. Tất nhiên và ngẫu nhiên đều do những nguyên nhân xác định quy định.
3. Phê phán quan điểm sai lầm về tất nhiên và ngẫu nhiên:
– Tuyệt đối hóa tất nhiên, phủ định ngẫu nhiên: Đây là quan điểm sai lầm vì rơi vào “thuyết định mệnh”, xem con người chỉ là trò chơi của số phận và đã hạ thấp trình độ của tất nhiên xuống trình độ của ngẫu nhiên.
– Tuyệt đối hóa ngẫu nhiên, phủ nhận tất nhiên: Quan điểm này đã xuyên tạc nhiệm vụ của khoa học, hướng khoa học đi vào con đường thần bí, khoa học chỉ là kết quả của ngẫu nhiên, phục tùng ngẫu nhiên, là chỗ dựa cho tôn giáo. Đây cũng là điểm tựa của chủ nghĩa bi quan bất lực trước cuộc sống, xa lánh việc làm cách mạng cải tạo tự nhiên và xã hội.
4. Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại bên ngoài, độc lập với ý thức của loài người và có quan hệ biện chứng với nhau.
– Tất nhiên và ngẫu nhiên là biểu hiện sự thống nhất của hai mặt đối lập.
– Tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại cô lập mà tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau. Không có ngẫu nhiên thuần túy, hay tất nhiên thuần túy. Bất cứ hiện tượng quá trình nào cũng đều là sự thống nhất giữa tất nhiên và ngẫu nhiên. Tất nhiên bao giờ cũng vạch đường cho mình đi xuyên qua vô số ngẫu nhiên, còn ngẫu nhiên bao giờ cũng là hình thức biểu hiện nội dung của cái tất nhiên, làm cho cái tất nhiên đa dạng nhiều vẻ hơn.
– Sự phân biệt giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ là tương đối. Trong những điều kiện cụ thể, tất nhiên có thể trở thành ngẫu nhiên và ngược lại.
5. Ý nghĩa phương pháp luận:
– Nếu tất nhiên là cái nhất định phải xuất hiện theo quy luật nội tại của nó, còn ngẫu nhiên có thể xuất hiện hay không xuất hiện thì trong hoạt động thực tiễn phải dựa trên cơ sở những mối liên hệ tất nhiên, phải căn cứ vào tất nhiên để đề ra phương hướng hoạt động chứ không phải dựa vào ngẫu nhiên và dừng lại ở ngẫu nhiên.
– Con người có thể tạo ra những điều kiện để biến ngẫu nhiên thành tất nhiên cần thiết cho hoạt động thực tiễn. Và trong hoạt động thực tiễn phải xem xét sự chuyển hóa giữa tất nhiên và ngẫu nhiên để không rơi vào tình trạng chủ quan nóng vội, duy ý chí.
– Nhiệm vụ của khoa học là phải vạch ra cái tất nhiên ẩn dấu đằng sau cái ngẫu nhiên, đồng thời giúp con người ngăn ngừa sự tác động của ngẫu nhiên không có lợi và sử dụng ngẫu nhiên có lợi.
Câu 17: Phân tích nội dung cặp phạm trù nội dung và hình thức, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận.
1. Khái niệm nội dung và hình thức.
– Nội dung là phạm trù triết học chỉ toàn bộ những yếu tố, những mặt, những mối liên hệ và những quá trình tạo nên sự vật.
– Hình thức là phạm trù triết học chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, phản ánh về kết cấu, trình độ, tốc độ của nội dung và là hệ thống các mối liên hệ tương đối ổn định giữa các yếu tố của nó.
Bất cứ sự vật nào cũng có hình thức bên ngoài, hình thức được nói đến trong cặp phạm trù này là hình thức bên trong của sự vật, tức là cơ cấu bên trong của nội dung. Nội dung cũng không phải là bản thân sự vật, đó là trạng thái nội tại của sự vật, giữa các yếu tố, các quá trình ở bên trong sự vật có sự tác động lẫn nhau để tạo thành sự vật. Bởi vậy, nội dung của sự vật là một quá trình chứ không phải là một cái gì bất biến.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức.
– Nội dung và hình thức bao giờ cũng là một thể thống nhất. Nội dung và hình thức gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau. Không có một hình thức nào lại không phản ánh nội dung, cũng như không có nội dung nào lại không biểu hiện qua hình thức. Sở dĩ có tình trạng này là do nội dung bao gồm những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật mà hình thức lại chính là hệ thống các yếu tố vừa góp phần tạo nên nội dung, vừa tham gia vào các mối liên hệ tạo nên hình thức. Vì lẽ đó nội dung và hình thức không thể tách rời nhau.
– So với hình thức thì nội dung là cái quyết định. Thực chất ở đây là nói đến mối quan hệ giữa cái có tính ổn định và cái thường xuyên biến đổi.
Sự biến đổi và phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu sự biến đổi từ nội dung. Khi nội dung đã biến đổi thì hình thức cũng phải biến đổi theo, vì nội dung là cái cơ sở của sự vật. Nhưng hình thức không phải chỉ có vai trò thụ động đi theo nội dung mà còn có tác động tích cực đến nội dung, ảnh hưởng của nó thường diễn ra theo hai hướng. Khi hình thức phù hợp với nội dung thì hình thức trở thành động lực tích cực thúc đẩy nội dung phát triển, ngược lại nếu nó không phù hợp thì nó sẽ cản trở sự phát triển đó.
– Tính độc lập tương đối của hình thức:
Mặc dù nội dung quy định sự biến đổi của hình thức nhưng trong tính bị quy định đó hình thức cũng có tính độc lập tương đối của nó. Trong quá trình phát triển, hình thức có thể lạc hậu so với nội dung vì không phải bất kỳ sự biến đổi nào của nội dung cũng ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi của hình thức. Hình thức chỉ có thể bị phá vỡ căn bản khi nội dung biến đổi tới giới hạn nhất định dẫn tới xung đột gay gắt với hình thức hiện có. Cùng một nội dung có thể được phản ánh qua một số kiểu hình thức khác nhau, hoặc cùng một hình thức có thể là sự biểu hiện một số nội dung khác nhau.
– Sự chuyến hóa giữa nội dung và hình thức:
Hình thức và nội dung là hai mặt đối lập cũng giống như bất kỳ hai mặt đối lập nào, nội dung và hình thức có sự thống nhất với nhau và chuyển hóa cho nhau. Cái là nội dung trong quan hệ này có thể trở thành hình thức trong quan hệ khác.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
– Trong hoạt động thực tiễn cần chống khuynh hướng tách rời nội dung và hình thức. Nội dung quyết định hính thức cho nên khi xem xét sự vật phải căn cứ vào nội dung, đồng thời phải thấy sự tác động của hình thức đối với nội dung.
– Cùng một nội dung trong quá trình phát triển khác nhau có thể có nhiều hình thức và ngược lại cùng một hình thức có thể thể hiện những nội dung khác nhau, cho nên phải linh hoạt trong việc sử dụng mọi hình thức có thể có tùy theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn. Cần chống lại hai thái cực sai lầm là cố bám giữ vào hình thức cũ hoặc hoàn toàn phủ nhận vai trò của nó trong hoàn cảnh mới mà chủ quan nóng vội thay đổi một cách tùy tiện.
Câu 18: Phân tích nội dung cặp phạm trù bản chất và hiện tượng, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận.
1. Khái niệm bản chất và hiện tượng:
– Bản chất là phạm trù triết học chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tạo thành một thể thống nhất hữu cơ bên trong, quy định sự vận động và phát triển của sự vật.
– Hiện tượng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự biểu hiện ra bên ngoài những mặt, những mối liên hệ đó.
– So sánh bản chất với cái chung và quy luật:
+ Bản chất là cái chung tất yếu quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật chứ không phải bất kỳ là cái chung nào.
+ Bản chất và quy luật là những phạm trù cùng loại, cùng trình độ. Tuy vậy bản chất và quy luật không bao giờ đồng nhất với nhau. Bản chất rộng hơn quy luật, bản chất bao gồm nhiều quy luật, là tổng hợp của nhiều quy luật. Bản chất là cái toàn bộ, quy luật là cái bộ phận. Một quy luật không nói hết được bản chất của sự vật mà chỉ phản ánh một mặt nào đó của bản chất.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:
– Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng.
+ Bản chất bao giờ cũng bộc lộ thông qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất. “Bản chất hiện ra, hiện tượng có tính bản chất”. Điều này cho thấy không có bản chất thuần túy nằm ở bên ngoài sự vật, hoặc là bản chất không phải là cái gì thần bí nằm ở bên trong sự vật mà bản chất nhất thiết phải bộc lộ ra thông qua hiện tượng và bất cứ hiện tượng nào cũng là biểu hiện của bản chất, biểu hiện một mức độ, một mặt nào đó, một vòng khâu nào đó của bản chất. Hiện tượng không tồn tại nếu không có bản chất.
+ Bản chất như thế nào thì hiện tượng tương ứng như thế ấy. Bản chất bị tiêu diệt thì hiện tượng do nó sinh ra sớm muộn cũng bị mất theo và nếu một bản chất mới xuất hiện thì sẽ xuất hiện những hiện tượng mới.
– Tính chất mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
+ Sự đối lập giữa cái bên trong và bên ngoài:
Bản chất là cái bên trong được biểu hiện thông qua các hiện tượng, hiện tượng là cái thể hiện ra bên ngoài. Tất cả các hiện tượng đều biểu hiện bản chất nhưng biểu hiện một cách khác nhau, có hiện tượng biểu hiện bản chất một cách trực tiếp đúng đắn, thậm chí có hiện tượng biểu hiện sai lệch bản chất.
Vì vậy muốn nhận thức đúng đắn, khoa học về sự vật thì không thể dừng lại ở một vài hiện tượng riêng lẻ mà cần phải phân tích tổng hợp các hiện tượng, đi sâu để tìm ra bản chất thực sự của nó.
+ Sự đối lập giữa cái tương đối ổn định và cái thường xuyên biến đổi:
Bản chất là cái bên trong, cái tương đối ổn định. Hiện tượng là cái thể hiện ra bên ngoài, cái thường xuyên biến đổi.
+ Sự đối lập giữa cái sâu sắc hơn và cái phong phú hơn:
Bản chất sâu sắc hơn hiện tượng vì bản chất là những mối liên hệ tất nhiên bên trong, ổn định, là cái quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, được lập đi lập lại trong nhiều hiện tượng khác. Nó biểu hiện quy luật phát triển chung của các hiện tượng đó.
Hiện tượng phong phú hơn bản chất vì ngoài bản chất chung mà các hiện tượng đều có nó còn chứa đựng các nhân tố cá biệt mà chỉ riêng nó có.
4. Ý nghĩa phương pháp luận:
Nếu bản chất biểu hiện thông qua hiện tượng và hiện tượng biểu hiện bản chất dưới hình thức cải biến, có khi dưới dạng xuyên tạc thì nhận thức không được dừng lại ở hiện tượng của sự vật, mà phải xem xét những mối liên hệ bên trong của sự vật để làm sáng tỏ bản chất ẩn dấu đằng sau hiện tượng. Trong hoạt động thực tiễn không dựa vào biểu hiện bên ngoài mà phải dựa vào sự hiểu biết những quy luật của sự vật, bản chất của sự vật. Vì lẽ đó cần phải hết sức thận trọng khi kết luận về bản chất của sự vật.
Câu 19: Phân tích nội dung cặp phạm trù khả năng và hiện thực, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận.
1. Khái niệm khả năng và hiện thực.
– Khả năng là phạm trù triết học dùng để chỉ cái hiện chưa có, chưa tới, nhưng sẽ tới, sẽ xuất hiện khi có điều kiện thích hợp.
– Hiện thực là phạm trù triết học dùng để chỉ cái hiện có, hiện đang tồn tại thật sự.
Như vậy khả năng là cái “chưa có” nhưng không phải bất kỳ cái chưa có nào mà phải hiểu là cái chưa có ở thời điểm đang xét, là cái sẽ có trong tương lai, khi có điều kiện thích hợp. Theo nghĩa đó, khả năng là tiền đề của cái mới.
Tuy khả năng là cái chưa có nhưng điều đó không có nghĩa là nó không tồn tại. Các sự vật mà khả năng đó biểu hiện chưa tồn tại như một hiện thực nhưng bản thân khả năng thì tồn tại. Vì vậy, khả năng cũng là một trạng thái đặc biệt của hiện thực, trạng thái mà hiện thực mới tồn tại trước khi trở thành chính bản thân mình.
– Phân loại khả năng:
Mọi khả năng đều là khả năng thực tế (đều tồn tại thực sự, do hiện thực sinh ra). Có những khả năng được hình thành một cách tất nhiên do quy luật vận động nội tại của sự vật (khả năng tất nhiên), có những khả năng được hình thành một cách ngẫu nhiên (khả năng ngẫu nhiên). Khả năng tất nhiên bao gồm khả năng gần (đã có đủ hoặc gần đủ những điều kiện cần thiết để biến thành hiện thực), khả năng xa (còn phải trải qua nhiều giai đoạn phát triển quá độ mới đủ điều kiện biến thành hiện thực)…
2. Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực.
– Khả năng và hiện thực ở trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể tách rời nhau, luôn luôn chuyển hóa lẫn nhau, vì hiện thực được chuẩn bị bởi khả năng, còn khả năng sẽ biến thành hiện thực. Đó là một quá trình vô tận. Do đó, sẽ mắc sai lầm nếu tách cái nọ khỏi cái kia. Kết quả là trong hoạt động thực tiễn sẽ không nhìn thấy khả năng tiềm tàng trong sự vật, do đó không xác định được tương lai phát triển của nó, hoặc không tạo ra những điều kiện cần thiết để thúc đẩy sự chuyển biến tích cực và không ngăn chặn kịp thời những biến chuyển tiêu cực.
– Cũng trong những điều kiện nhất định ở cùng một sự vật có thể tồn tại một số khả năng vốn đã có ở sự vật, trong những điều kiện nhất định, khi có thêm điều kiện mới bổ sung thì ở sự vật sẽ xuất hiện thêm những khả năng mới. Ngay trong bản thân mỗi khả năng cũng không phải là không thay đổi, nó có thể tăng lên giảm đi là tùy thuộc vào sự biến đổi của sự vật trong những điều kiện cụ thể.
– Quá trình khả năng biến thành hiện thực diễn ra trong tự nhiên không giống như trong xã hội. Ở trong tự nhiên là một quá trình khách quan, diễn ra tự phát. Trong xã hội, sự chuyển hóa đó phải thông qua hoạt động có ý thức của con người.
– Trong những điều kiện nhất định, có khả năng tất yếu trở thành hiện thực, nhưng cũng có khả năng có thể không trở thành hiện thực.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
Phải thấy rõ mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực.
– Nếu chỉ thấy hiện thực mà không thấy khả năng thì sẽ không dự đoán được tương lai. Nếu thấy khả năng mà không thấy hiện thực sẽ dẫn đến bi quan. Nếu đồng nhất khả năng với hiện thực thì sẽ ảo tưởng.
– Trong hoạt động thực tiễn phải căn cứ vào hiện thực để đánh giá tình hình và phải phán đoán đúng tính chất và xu hướng của khả năng để phát huy tối đa tính năng động chủ quan, ứng xử kịp thời tránh tư tưởng chờ đợi thụ động.
Câu 20: Nhận thức là gì? Thực tiễn là gì? Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức lý luận.
– Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ não người. Đó là sự phản ánh năng động, sáng tạo dựa trên hoạt động tích cực của chủ thể trong quan hệ với khách thể.
+ Chủ thể nhận thức: theo nghĩa rộng là xã hội loài người nói chung. Hiểu một cách cụ thể, chủ thể là nhóm người như giai cấp, dân tộc, tập thể, cá nhân… Tuy nhiên không phải bất kỳ con người nào cũng trở thành chủ thể nhận thức, con người chỉ trở thành chủ thể khi nó tham gia vào hoạt động xã hội nhằm nhận thức và biến đổi khách thể.
+ Khách thể nhận thức: không phải toàn bộ hiện thực khách quan, mà chỉ là bộ phận, là lĩnh vực nào đó của nó ở trong miền hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của chủ thể.
– Thực tiễn là một phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ hoạt động vật chất có tính chất lịch sử-xã hội của con người nhằm làm biến đổi tự nhiên và xã hội.
+ Bản chất của hoạt động thực tiễn là sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể, trong đó chủ thể với tính năng động của mình tác động làm biến đổi khách thể.
+ Hoạt động thực tiễn đa dạng, song chúng ta có thể chia làm ba hình thức cơ bản:
* Hoạt động sản xuất vật chất: Đây là hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn có vai trò quyết định và là cơ sở cho các hoạt động khác của thực tiễn.
* Hoạt động làm biến đổi các quan hệ xã hội (đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh vì hòa bình…), đây là hình thức cao nhất của hoạt động thực tiễn.
* Thực nghiệm khoa học: đây là hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn, được tiến hành trong những điều kiện nhân tạo để tạo ra cơ sở nhận thức, làm biến đổi tự nhiên và xã hội.
– Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
+ Thực tiễn là cơ sở và động lực của nhận thức.
Nhận thức bắt nguồn từ thực tiễn. Chính là từ trong hoạt động thực tiễn làm xuất hiện những nhu cầu buộc con người phải nhận thức thế giới. Vì vậy mà con người nhận thức thế giới thông qua thực tiễn.
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm cho sự vật, hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, những liên hệ, trên cơ sở đó con người nhận thức chúng. Như vậy, thực tiễn đã đem lại những tài liệu cho quá trình nhận thức, giúp cho nhận thức nắm được bản chất, các quy luật của thế giới.
Thực tiễn còn làm hoàn thiện giác quan của con người, tạo ra những phương tiện làm tăng khả năng nhận biết của các giác quan nhờ đó nó thúc đẩy nhận thức phát triển.
+ Thực tiễn là mục đích của nhận thức.
Tri thức do nhận thức đem lại chỉ trở thành sức mạnh vật chất khi áp dụng có hiệu quả trong hoạt động thực tiễn. Như vậy, nhận thức không phải là để nhận thức mà có mục đích cuối cùng, đó là giúp cho con người trong hoạt động biến đổi thế giới.
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức.
Nhận thức phải thông qua thực tiễn mới kiểm tra được tính chân lý của nó. Chỉ trong thực tiễn, con người mới xác định được cái đúng đắn, cái sai lầm và giới hạn của tính đúng đắn của mọi tri thức do nhận thức đem lại.
Câu 21: Phân tích con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý.
Nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng thế giới hiện thực khách quan vào trong bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn.
Quá trình đó được Lênin khái quát như sau: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan” (V.I.Lênin Toàn tập, T.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.179)
– Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức, gắn liền với thực tiễn thông qua các giác quan diễn ra với các hình thức cơ bản sau:
+ Cảm giác là hình thức đầu tiên của sự phản ánh hiện thực khách quan. Sự vật hiện tượng tác động vào các giác quan, gây nên sự kích thích của các tế bào thần kinh làm xuất hiện các cảm giác. Cảm giác là sự phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng như màu sắc, mùi vị,..
– Tri giác là hình thức kế tiếp sau cảm giác. Tri giác là sự phản ánh nhiều thuộc tính của sự vật, hiện tượng trong sự liên hệ giữa chúng với nhau. Tri giác được hình thành từ nhiều cảm giác kết hợp lại. Tri giác cũng là sự phản ánh trực tiếp các sự vật, hiện tượng thông qua các giác quan của con người.
+ Biểu tượng là hình thức cao nhất của trực quan sinh động. Biểu tượng xuất hiện trên cơ sở những hiểu biết về sự vật do tri giác đem lại. Biểu tượng là hình ảnh được lưu giữ trong chủ thể, khi không còn sự vật hiện tượng hiện diện trực tiếp trước chủ thể. Ở đây biểu tượng đã ít nhiều mang tính gián tiếp cho nên nó là khâu trung gian giữa trực quan sinh động và tư duy trừu tượng.
– Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, bao gồm các hình thức cơ bản là: khái niệm, phán đoán và suy lý.
+ Khái niệm là hình thức cơ bản nhất của tư duy trừu tượng. Nó phản ánh, khái quát những đặc tính cơ bản và phổ biến của một lớp sự vật, hiện tượng nhất định.
+ Phán đoán là sự liên hệ giữa các khái niệm theo một qui tắc xác định mà chúng ta có thể xác định được trị số logic của nó.
+ Suy lý là một thao tác logic tư duy để đi đến những tri thức mới từ những tri thức đã có.
– Sự thống nhất giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính:
+ Nhận thức cảm tính khác nhận thức lý tính ở chỗ: nhận thức cảm tính là giai đoạn thấp, phản ánh khách thể một cách trực tiếp, đem lại những tri thức cảm tính. Ngược lại nhận thức lý tính là giai đoạn cao, phản ánh khách thể một cách gián tiếp, khái quát đem lại những tri thức về bản chất và quy luật của khách thể.
+ Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là các giai đoạn của một quá trình nhận thức dựa trên cơ sở thực tiễn. Giữa chúng có sự tác động qua lại: nhận thức cảm tính cung cấp tài liệu cho nhận thức lý tính, nhận thức lý tính tác động trở lại nhận thức cảm tính làm cho nó chính xác hơn, nhạy bén hơn.
+ Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về sự thống nhất giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa duy cảm (đề cao vai trò của nhận thức cảm tính) và chủ nghĩa duy lý (đề cao vai trò nhận thức lý tính).
– Thực tiễn trong quá trình nhận thức:
+ Nhận thức phải trở về thực tiễn để kiểm tra, khẳng định chân lý hay sai lầm. Ngoài ra, mục đích của nhận thức là để định hướng cho hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.
+ Quay trở về thực tiễn nhận thức mới hoàn thành được chu trình biện chứng của nó. Trên cơ sở hoạt động thực tiễn, nhận thức tiếp theo lại được bắt đầu bằng chu trình khác cao hơn.
Câu 22: Trình bày quan điểm của triết học Mác-Lênin về vấn đề chân lý.
1. Khái niệm chân lý:
– Chân lý là những tri thức về thế giới khách quan được phản ánh vào bộ óc người, có nội dung phù hợp với hiện thực do nó phản ánh và đã được thực tiễn kiểm nghiệm.
– Chân lý bao giờ cũng là chân lý khách quan. Chân lý khách quan là những tri thức mà nội dung của nó không phụ thuộc vào ý thức của con người.
– Chân lý là một quá trình, vì tiêu chuẩn của chân lý là thực tiễn và còn vì nhận thức của con người là một quá trình.
2. Chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối.
– Chân lý tuyệt đối là những tri thức có nội dung đúng và phù hợp hoàn toàn với hiện thực mà nó phản ánh. Có chân lý tuyệt đối vì con người hoàn toàn có khả năng nhận thức đúng đắn về thế giới khi có đầy đủ các điều kiện.
– Chân lý tương đối là tri thức đúng nhưng chưa phù hợp hoàn toàn với hiện thực khách quan do nó phản ánh. Sự phù hợp giữa nội dung của nó đối với khách thể được phản ánh là sự phù hợp bộ phận, ở một số mặt nhất định.
+ Tính tương đối của chân lý biểu hiện ở chỗ nó phản ánh sự vật tồn tại trong một phạm vi có giới hạn, trong những điều kiện xác định về không gian và thời gian, vì con người hoàn toàn có khả năng nhận thức được thế giới nhưng không phải nhận thức diễn ra một lần là xong mà là quá trình đi từ chưa biết đầy đủ đến biết đầy đủ hơn về sự vật và hiện tượng.
3. Quan hệ biện chứng giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối.
– Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối đều là chân lý khách quan.
– Chân lý tuyệt đối là tổng vô hạn các chân lý tương đối.
– Trong mỗi chân lý tương đối mặc dù là tương đối nhưng bao giờ cũng có những yếu tố của chân lý tuyệt đối.
– Sự khác biệt giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối không thuộc về bản chất mà ở mức độ phù hợp giữa chúng với khách thể. Sự khác biệt đó về mức độ phù hợp giữa chúng với khách thể bao giờ cũng tồn tại, nhưng thường xuyên được xóa bỏ trong quá trình tiến lên vô hạn của nhận thức.
– Khi thừa nhận sự thống nhất giữa chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối, điều đó cũng có nghĩa là sự thừa nhận tính cụ thể của chân lý.
4. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý:
– Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất của chân lý. Nhờ thực tiễn, chúng ta phân biệt được chân lý và sai lầm.
– Thực tiễn có vai trò như vậy, vì nó có ưu điểm của “tính phổ biến” và là “hiện thực trực tiếp”, nhờ đó mà thực tiễn có thể “vật chất hóa’ được tri thức, biến các tri thức thành các khách thể vật chất có tính xác thực cảm tính.
– Tiêu chuẩn thực tiễn vừa mang tính tuyệt đối vừa mang tính tương đối. Tuyệt đối vì nó là tiêu chuẩn khách quan duy nhất; tương đối vì bản thân thực tiễn luôn luôn biến đổi, phát triển. Sự biến đổi này dẫn đến chỗ tiếp tục bổ sung, phát triển những tri thức đã có trước đó.
Phần B
CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ XÃ HỘI
Câu 23: Khái niệm quy luật xã hội? Phân tích mối quan hệ giữa quy luật xã hội và hoạt động có ý thức của con người.
– Khái niệm quy luật xã hội:
Quy luật phát triển của xã hội là những mối liên hệ khách quan, bản chất và tất yếu, lặp đi lặp lại giữa các hiện tượng của đời sống xã hội.
Con người tự làm ra lịch sử của mình, nói cách khác lịch sử loài người là những hoạt động của con người theo đuổi những mục đích của bản thân mình.
Trong xã hội, con người (dân tộc, giai cấp, đảng phái,..) hành động một cách có ý thức, theo đuổi những mục đích nhất định, do những tư tưởng dẫn dắt. Nhưng bản thân các hệ tư tưởng đều phản ánh những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
Trong xã hội, con người phải quan hệ với nhau và trong vô vàn các mối quan hệ giữa con người với con người và con người với tự nhiên, thì quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, nền tảng, mà các quan hệ sản xuất lại thuộc về lĩnh vực đời sống vật chất của xã hội, nghĩa là nó tồn tại một cách khách quan tất yếu, độc lập với ý chí của cá nhân, tập đoàn, giai cấp trong xã hội.
Các hiện tượng đa dạng của xã hội dù có vẻ ngẫu nhiên đến đâu, rốt cuộc cũng tuân theo một khuynh hướng chung nhất định, tức là vẫn thể hiện tính quy luật.
– Đặc điểm của quy luật xã hội:
+ Quy luật tự nhiên diễn ra một cách tự động không có sự tác động của con người. Quy luật xã hội diễn ra thông qua hoạt động của con người có ý thức, nhưng không phụ thuộc vào ý thức con người.
+ Quy luật xã hội không biểu hiện ra trực tiếp ở từng hiện tượng đơn lẻ, từng con người mà thường biểu hiện ra như một xu hướng. Do đó, nếu không gian càng rộng, thời gian càng dài thì quy luật biểu hiện càng rõ.
+ Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, đồng thời là cơ sở của các quy luật xã hội.
+ Quy luật xã hội phát huy tác dụng trong những điều kiện cụ thể, những điều kiện đó không ngừng thay đổi, từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác. Trong một hình thái kinh tế-xã hội thì các điều kiện ở mỗi nước cũng khác nhau, do đó quy luật phát huy tác dụng khác nhau.
– Mối quan hệ giữa quy luật xã hội và hoạt động của con người có ý thức:
Khẳng định sự tồn tại và tác động của các quy luật xã hội trong quá trình lịch sử thì điều đó không có nghĩa là phủ nhận vai trò của những hoạt động có ý thức của con người. Trái lại, sự phát triển của lịch sử đã xác nhận vai trò ngày càng tăng lên của nhân tố chủ quan, những hoạt động có ý thức của con người.
Quy luật xã hội hình thành và chi phối một cách tất yếu các hoạt động của con người, nói cách khác, tất cả mọi hoạt động của con người đều phải đối mặt với tính tất yếu, quy luật. Do đó, con người muốn đạt đến tự do trong hoạt động của mình, con người phải xử lý đúng mối quan hệ giữa tự do và tất yếu.
“Hoạt động tự do, có ý thức là đặc tính của con người” (C.Mác, Ăngghen tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, T.1, tr.118). Nhưng tự do không phải là độc lập với quy luật, bất chấp quy luật mà là nhận thức đúng quy luật và vận dụng các quy luật để cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội để thỏa mãn nhu cầu của mình.
Ăngghen viết: “Tự do không phải là ở sự độc lập tưởng tượng đối với các quy luật của tự nhiên, mà là ở sự nhận thức được những quy luật đó và ở cái khả năng – có được nhờ sự nhận thức này – buộc những quy luật đó tác động một cách có kế hoạch nhằm những mục đích nhất định. Điều đó là đúng với những quy luật của tự nhiên bên ngoài, cũng như đối với những quy luật chi phối tồn tại vật chất và tinh thần của bản thân con người, hai loại quy luật mà chúng ta nhiều lắm cũng chỉ có thể tách cái nọ ra khỏi cái kia trong quan niệm chứ không thể tách ra trong thực tế được. Như vậy tự do của ý chí chẳng qua chỉ là cái năng lực quyết định một cách hiểu biết” (C.Mác, Ăngghen tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984, T.5, tr.163).
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định tự do là một sản phẩm của lịch sử. Ở buổi đầu của lịch sử do chưa có hiểu biết, con người là “nô lệ” của giới tự nhiên, nhưng càng ngày con người càng có nhận thức sâu sắc về các quy luật của tự nhiên, quy luật của xã hội, vận dụng các quy luật để cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội theo đúng tính tất yếu của nó. Và do đó, hoạt động của con người càng tự do hơn. Tự do là cái tất yếu được nhận thức.Tức tự do là nắm vững và hành động phù hợp với tất yếu.
Câu 24: Khái niệm phương thức sản xuất? Tại sao nói phương thức sản xuất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội?
Phương thức sản xuất là cách thức mà con người làm ra của cải vật chất trong một giai đoạn lịch sử nhất định, theo cách đó con người có những quan hệ nhất định với tự nhiên và với nhau trong sản xuất.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng, lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch sử phát triển của sản xuất, lịch sử vận động của các phương thức sản xuất lần lượt thay thế nhau, là lịch sử của quần chúng nhân dân lao động trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Do đó, muốn hiểu lịch sử phát triển của xã hội loài người, trước hết phải hiểu lịch sử phát triển của sản xuất, hiểu quá trình sản xuất của con người qua các giai đoạn lịch sử khác nhau.
Xã hội là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên, vận động và phát triển theo quy luật đặc thù của nó. Tuy nhiên, giữa xã hội và tự nhiên thường xuyên diễn ra sự trao đổi vật chất. Sự trao đổi đó được thực hiện trong quá trình lao động sản xuất của con người. Như vậy, nếu tách lịch sử xã hội loài người với lịch sử phát triển của sản xuất vật chất thì sẽ không thể nào hiểu được loài người phải trải qua những hình thái kinh tế-xã hội từ thấp lên cao.
Sản xuất vật chất là lực lượng chủ yếu và là động lực cơ bản thúc đẩy lịch sử phát triển, xã hội tiến lên. Đó là điều kiện quyết định của đời sống con người, là yêu cầu tất yếu khách quan đối với sự sinh tồn của xã hội. Xã hội không thể thỏa mãn nhu cầu của mình bằng cái đã có sẵn trong giới tự nhiên, để duy trì đời sống của mình, con người phải tiến hành sản xuất của cải vật chất. Vì thế, sản xuất của cải vật chất là một điều kiện cơ bản của mọi xã hội, là một hành động lịch sử mà loài người phải duy trì từ xưa đến nay.
Xã hội là một hệ thống và trong từng giai đoạn lịch sử nhất định, tính chất và kết cấu xã hội không phải do nguyện vọng và ý chí của cá nhân, tập đoàn, cũng không do hình thức nhà nước pháp quyền quy định mà do phương thức sản xuất quyết định. Phương thức sản xuất thống trị trong mỗi xã hội quyết định tính chất của chế độ xã hội; các giai cấp, kết cấu giai cấp và tính chất của các mối quan hệ giữa các giai cấp, cũng như các quan điểm về chính trị pháp quyền, đạo đức, triết học…
Mỗi hình thái kinh tế-xã hội có phương thức sản xuất đặc thù của nó. Và sự thay thế của các phương thức sản xuất khác nhau chính là cơ sở của sự thay thế của các hình thái kinh tế-xã hội nối tiếp nhau. Điều này chứng tỏ, phương thức sản xuất giữ vai trò quyết định trong sự chuyển hóa của xã hội loài người qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. Mỗi khi phương thức sản xuất mới ra đời, giai cấp mới lên cầm quyền, kết cấu kinh tế xã hội thay đổi thì những quan hệ xã hội về mặt chính trị, pháp quyền, tư tưởng, đạo đức,.. cũng biến đổi theo.
Với ý nghĩa nói trên mà C.Mác đã nhấn mạnh: “Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp” (C.Mác, Ăngghen tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, T.1, tr.380).
Lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch sử của sản xuất, lịch sử của các phương thức sản xuất vận động phát triển và thay thế nhau từ thấp lên cao.
Câu 25: Phân tích nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Từ đó rút ra ý nghĩa của việc vận dụng quy luật này trong thực tiễn ở nước ta hiện nay.
Bất cứ phương thức sản xuất ở một giai đoạn phát triển lịch sử nào cũng đều bao gồm hai mặt: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất – là biểu hiện mối quan hệ giữa người và tự nhiên trong quá trình sản xuất; quan hệ sản xuất – là biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. C.Mác đã chỉ rõ: “Trong sản xuất, con người không chỉ có quan hệ với tự nhiên mà còn phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau, và chỉ trong phạm vi những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó thì mới có tác động vào tự nhiên, vào sản xuất được”.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng phản ánh hai mối quan hệ khác nhau, đặc trưng phát triển không giống nhau, nhưng chúng có mối liên hệ hữu cơ không thể tách rời và tác động biện chứng lẫn nhau hình thành quy luật xã hội phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người: Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật này vạch rõ sự quy định, phụ thuộc lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định.
– Kết cấu của lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất bao gồm ba yếu tố cấu thành: Người lao động (lứa tuổi, sức khỏe, trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, năng lực), tư liệu sản xuất và khoa học kỹ thuật công nghệ. Trong đó người lao động là nhân tố quyết định của lực lượng sản xuất.
– Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất:
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu sản xuất và của lao động, là kết tinh sức lao động xã hội trong từng đơn vị sản phẩm do quá trình sản xuất tạo ra. Nếu công cụ thủ công thì lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân, nếu công cụ là máy móc thì lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa.
Trình độ của lực lượng sản xuất là trình độ phát triển của công cụ lao động, của kỹ thuật, trình độ kinh nghiệm, kỹ năng lao động của người lao động, qui mô sản xuất, trình độ phân công lao động xã hội…
– Quan hệ sản xuất hình thành, biến đổi và phát triển dưới ảnh hưởng quyết định của lực lượng sản xuất.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng sự thay đổi và phát triển của bất cứ một phát triển sản xuất nào bao giờ cũng bắt đầu bằng sự thay đổi và phát triển của các lực lượng sản xuất.
Trong quá trình sản xuất để đạt được năng suất lao động cao hơn, con người luôn luôn tìm cách cải tiến công cụ lao động và chế tạo ra những công cụ lao động mới tinh xảo hơn. Cùng với sự biến đổi và phát triển của công cụ lao động, kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng lao động, kiến thức khoa học,.. của người lao động cũng không ngừng tăng lên.
Mặt khác, trong cấu trúc của phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là nội dung còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó, trong mối quan hệ đó nội dung là quyết định. Nội dung biến đổi kéo theo sự biến đổi của hình thức.
Do đó lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, không ổn định nhất, yếu tố cách mạng nhất của quá trình sản xuất vật chất. Sự biến đổi của lực lượng sản xuất, trước hết là sự biến đổi của công cụ sản xuất đã dẫn đến sự biến đổi trong các quan hệ sản xuất giữa người và người. Điều đó cho thấy công cụ sản xuất không những là thước đo trình độ phát triển của các lực lượng sản xuất, mà còn là dấu hiệu báo trước quan hệ xã hội, quan hệ kinh tế giữa người với người cũng biến đổi theo. C.Mác viết: “Phương thức sản xuất, những quan hệ trong đó các lực lượng sản xuất phát triển, đều không phải là những quy luật vĩnh viễn, mà chúng thích ứng với sự phát triển nhất định của con người và của những lực lượng sản xuất của con người, và một sự thay đổi trong lực lượng sản xuất của con người tất phải dẫn đến một sự thay đổi trong những quan hệ sản xuất của con người” (C.Mác, Ăngghen tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, T.1, tr.396).
Điều đó chứng tỏ sự phát triển của lực lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất cũng phát triển theo cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó là động lực nội tại thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, lực lượng sản xuất có xu hướng phát triển nhanh hơn, còn quan hệ sản xuất lại tương đối ổn định. Khi lực lượng sản xuất phát triển lên một trình độ mới, quan hệ sản xuất không còn phù hợp với nó nữa, trở thành chướng ngại đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai mặt của phương thức sản xuất. Một cách tất yếu là quan hệ sản xuất cũ bị xóa bỏ, quan hệ sản xuất mới hình thành phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã phát triển, mở đường cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển.
Quan hệ sản xuất cũ bị xóa bỏ, quan hệ sản xuất mới hình thành, cũng đồng thời sự diệt vong của phương thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời của phương thức sản xuất mới. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời là cơ sở khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời là tiền đề của các cuộc cách mạng xã hội.
Sự tác động của quy luật nói trên trong lịch sử đã làm cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội thấp lên hình thái kinh tế-xã hội cao hơn một cách biện chứng.
– Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất:
Trong cấu trúc của phương thức sản xuất thì quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà lực lượng sản xuất luôn luôn phải dựa vào để phát triển. Tất nhiên quan hệ sản xuất thường xuyên tác động trở lại với lực lượng sản xuất: có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Theo tính tất yếu khách quan, quan hệ sản xuất lỗi thời sẽ bị thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất có thể tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất, bởi vì quan hệ sản xuất quy định tính mục đích của quá trình sản xuất vật chất, quy định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức phân phối của cải mà người lao động trực tiếp được hưởng. Tất cả những yếu tố nói trên lại ảnh hưởng và quy định thái độ của quần chúng lao động – lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội.
Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất theo chiều hướng tích cực, khi quan hệ sản xuất là một hệ thống hoàn chỉnh gồm cả ba mối quan hệ: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức và quản lý sản xuất, phân phối sản phẩm, đều phù hợp với tính chất (trình độ) của lực lượng sản xuất.
Sự tác động của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất vào lịch sử đã đưa xã hội loài người phát triển qua các phương thức sản xuất: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa trong tương lai.
Lịch sử xã hội loài người nói chung phát triển tuần tự từ thấp lên cao, nhưng thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng nhiều nước đã bỏ qua một số phương thức sản xuất để tiến lên phương thức sản xuất cao hơn.
Ở Việt Nam, để xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, chúng ta chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy việc bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa về thực chất là bỏ qua chế độ chính trị tư bản, chúng ta lại kế thừa những giá trị của chủ nghĩa tư bản với tư cách là lực lượng sản xuất, để hướng nền sản xuất đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Câu 26: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. Đặc điểm của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
– Khái niệm cơ sở hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế-xã hội nhất định.
– Khái niệm kiến trúc thượng tầng:
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội, những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại giữa chúng hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
– Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:
+ Mỗi hình thái kinh tế-xã hội có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nó. Do đó, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mang tính lịch sử cụ thể, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định.
+ Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện:
Cơ sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần. Quan hệ sản xuất nào thống trị thì tạo ra kiến trúc thượng tầng chính trị tương ứng. Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng.
Do đặc điểm nói trên, bất kỳ hiện tượng nào thuộc kiến trúc thượng tầng: nhà nước, pháp luật, đảng phái chính trị, triết học, đạo đức,.. đều không thể giải thích từ chính nó, bởi vì, chúng đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng và do cơ sở hạ tầng quyết định.
Những biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi căn bản trong kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó diễn ra trong từng hình thái kinh tế-xã hội và rõ rệt hơn khi chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác.
Khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng do nó sinh ra cũng mất theo, khi cơ sở hạ tầng mới ra đời thì một kiến trúc thượng tầng mới phù hợp với nó cũng xuất hiện. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, sự biến đổi đó diễn ra thông qua cuộc đấu tranh giai cấp gay go phức tạp. Khi cuộc cách mạng xã hội xóa bỏ cơ sở hạ tầng cũ thay thế bằng cơ sở hạ tầng mới, sự thống trị về chính trị của giai cấp cách mạng được thiếp lập, bộ máy nhà nước mới hình thành, sự thống trị về tư tưởng của giai cấp cách mạng cầm quyền được xác lập.
Sự biến mất của một kiến trúc thượng tầng không diễn ra một cách nhanh chóng, có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ còn tồn tại dai dẳng sau khi cơ sở kinh tế của nó đã bị tiêu diệt. Có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ được giai cấp cầm quyền mới sử dụng để xây dựng kiến trúc thượng tầng mới.
Do đó, tính quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp trong quá trình chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác.
+ Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng:
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, kiến trúc thượng tầng bảo đảm sự thống trị chính trị và tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh tế.
Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng. Nhà nước không chỉ dựa vào hệ tư tưởng mà còn dựa vào chức năng kiểm soát xã hội để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị. Ăngghen viết: “bạo lực (nghĩa là quyền lực nhà nước) cũng là một lực lượng kinh tế” (C.Mác, Ăngghen tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971, T.II, tr.604).
Các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cũng tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng thường thường phải thông qua nhà nước, pháp luật.
Kiến trúc thượng tầng là một hệ thống, nó có quá trình biến đổi phát triển do sự tác động của các yếu tố nội tại, do đó nó có tính độc lập tương đối. Quá trình đó phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng thì sự tác động của nó đối với cơ sở hạ tầng càng có hiệu quả.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định, chỉ có kiến trúc thượng tầng tiến bộ nảy sinh trong quá trình của cơ sở kinh tế mới – mới phản ánh nhu cầu của sự phát triển kinh tế, mới có thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Nếu kiến trúc thượng tầng là sản phẩm của cơ sở kinh tế đã lỗi thời thì gây tác dụng kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã hội. Tất nhiên sự kìm hãm chỉ là tạm thời, sớm muộn nó sẽ bị cách mạng khắc phục.
+ Đặc điểm của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta:
Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế, các kiểu tổ chức kinh tế, các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với các hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau, cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất.
Tương ứng với sự đồng nhất về bản chất kinh tế là sự tác động của nhiều hệ thống quy luật kinh tế. Hệ thống quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa; hệ thống quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hóa nhỏ và hệ thống quy luật kinh tế tư bản chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là Nhà nước xã hội chủ nghĩa tạo ra một hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho sự phát triển của các thành phần kinh tế, đồng thời Nhà nước sử dụng tổng thể các biện pháp – trong đó biện pháp kinh tế là quan trọng nhất – nhằm từng bước xã hội hóa nền sản xuất. Kinh tế Nhà nước không ngừng được củng cố và phát triển cả về chất và về lượng ở những vị trí nòng cốt của nền kinh tế.
– Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
Đảng ta khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở nền tảng của tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng.
Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, do đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền lực thuộc về nhân dân.
Các tổ chức, thiết chế, các lực lượng xã hội tham gia vào hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là vì một mục tiêu chung, lợi ích chung, hướng tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý kinh tế-xã hội và mọi lĩnh vực hoạt động khác.
Các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị-xã hội không tồn tại như một mục đích tự thân mà vì phục vụ con người, vì lợi ích và quyền lực của nhân dân lao động.
Câu 27: Khái niệm hình thái kinh tế-xã hội? Vì sao nói sự phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.
– Khái niệm hình thái kinh tế-xã hội:
Hình thái kinh tế-xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với những quan hệ sản xuất của nó (cơ sở hạ tầng) thích ứng với lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và với một kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó.
Hình thái kinh tế-xã hội là một hệ thống, một chỉnh thể toàn vẹn có cơ cấu phức tạp, trong đó có những mặt cơ bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Lực lượng sản xuất – là quan hệ giữa người với tự nhiên trong quá trình sản xuất – là nền tảng vật chất-kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế-xã hội. Xét đến cùng, lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành và phát triển của mỗi hình thái kinh tế-xã hội. Bản thân các lực lượng sản xuất không phải là sản phẩm riêng của một thời đại nào mà là sản phẩm của cả một quá trình phát triển liên tục từ thấp lên cao qua các thời đại, là sự tiếp biến không ngừng của lịch sử.
Quan hệ sản xuất – quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất – là những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác, không có những mối quan hệ đó thì không thành xã hội và không có quy luật xã hội. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội cụ thể này với xã hội cụ thể khác.
Những quan hệ sản xuất là bộ xương của cơ thể xã hội hợp thành cơ sở hạ tầng và trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng tương ứng mà chức năng xã hội của nó là bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
Ngoài các quan hệ cơ bản: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng, trong mỗi hình thái kinh tế-xã hội còn có những quan hệ dân tộc, gia đình,..
– Sự phát triển của các hình thái kinh tế–xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.
C.Mác viết: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên” (C.Mác, Tư bản, quyển 1, T.1, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1973, tr.20).
Hình thái kinh tế-xã hội được xem như là một cơ thể, một hệ thống hoàn chỉnh luôn luôn vận động và phát triển. Đó là hệ thống các quan hệ xã hội, bao gồm những quan hệ vật chất và quan hệ tư tưởng. Quan hệ tư tưởng được xây dựng trên những quan hệ vật chất-quan hệ hình thành ngoài ý chí và ý thức của con người, như một kết quả của sự hoạt động của con người để đảm bảo sự sinh tồn của mình.
Học thuyết hình thái kinh tế–xã hội cho phép đi sâu vào bản chất của quá trình lịch sử, hiểu được logic khách quan của quá trình đó, nhìn thấy sự phát triển của xã hội loài người như là một quá trình lịch sử tự nhiên, một quá trình diễn ra nhiều mặt và chứa đầy mâu thuẫn, quá trình vận động hợp với quy luật khách quan. Đó là những quy luật nội tại, tự thân trong cấu trúc của hình thái kinh tế-xã hội, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã và đang trải qua năm hình thái kinh tế-xã hội khác nhau: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng, mỗi hình thái kinh tế-xã hội đều có những quy luật riêng của nó khi nó phát sinh, phát triển và chuyển sang một hính thái khác cao hơn. Đồng thời cũng khẳng định đến sự tồn tại của những quy luật phản ánh những đặc điểm chung của mọi hình thái kinh tế-xã hội, những quy luật phổ biến phát huy tác dụng trong tất cả các giai đoạn phát triển của lịch sử, trong tất cả các hình thái kinh tế-xã hội.
Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất có vai trò quyết định nhất. Con người làm ra lực lượng sản xuất bằng năng lực thực tiễn của mình. Tuy nhiên, năng lực thực tiễn lại bị quy định bởi nhiều điều kiện khách quan. Mỗi thế hệ làm ra lực lượng sản xuất của mình phải dựa trên những lực lượng sản xuất đã đạt được của thế hệ trước ở hình thái kinh tế-xã hội trước đó. Vì vậy, bản thân các lực lượng sản xuất không phải là sản phẩm riêng của thời đại nào, mà là sản phẩm của cả một quá trình phát triển liên tục từ thấp lên cao qua các hình thái kinh tế-xã hội. Nhưng, chính tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã quy định một cách khách quan tính chất và trình độ của quan hệ sản xuất, do đó, xét đến cùng lực lượng sản xuất quyết định quá trình vận động phát triển của hình thái kinh tế-xã hội như một quá trình lịch sử tự nhiên.
Sự vận động phát triển thay thế nhau của các hình thái kinh tế-xã hội từ thấp lên cao trước hết được giải thích bằng sự tác động của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất, một mặt của phương thức sản xuất, là yếu tố đảm bảo tính kế thừa trong sự phát triển tiến lên của lịch sử. Quan hệ sản xuất là mặt thứ hai của phương thức sản xuất biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch sử.
Lịch sử loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế-xã hội, nhưng lịch sử cụ thể vô cùng phong phú, không thể xem quá trình lịch sử là một công thức hoặc như một đường thẳng. Thực tế lịch sử diễn ra những hình thức quá độ khác nhau của các dân tộc, một số dân tộc phải trải qua tuần tự các hình thái kinh tế-xã hội, một số dân tộc lại bỏ qua một số hình thái để đạt được những bước phát triển nhanh hơn.
Nhân loại hiện nay đang và sẽ trải qua hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa. Hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa có ba giai đoạn phát triển: Thời kỳ quá độ từ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội; Chủ nghĩa xã hội; Chủ nghĩa cộng sản.
Câu 28: Phân tích định nghĩa về giai cấp của Lênin và rút ra ý nghĩa của định nghĩa đối với việc xem xét vấn đề giai cấp ở nước ta hiện nay.
1. Những quan điểm về giai cấp trong lịch sử:
Quan điểm về giai cấp được hình thành khá sớm trong lịch sử. Ở Trung Quốc, từ thế kỷ IV, III tcn người ta đã thừa nhận rằng xã hội phân chia thành giai cấp là một thực tế. Nhưng do nguyên nhân gì mà xã hội phân chia thành giai cấp thì có nhiều quan niệm khác nhau.
Nhiều nhà triết học, xã hội học của giai cấp bóc lột đã cắt nghĩa sự phân chia xã hội thành giai cấp là do nguyên nhân chủ quan, do những yếu tố tinh thần. Do chỗ họ không đưa ra được những tiêu chuẩn khoa học để phân định sự khác nhau về giai cấp nên đã cho rằng: Sự khác nhau về giai cấp là do khác nhau về chủng tộc, về màu da, về tâm lý, về tài năng cá nhân, về địa vị và uy tín xã hội. Từ đó các nhà tư tưởng của các giai cấp bóc lột kêu gọi đi tìm những giá trị xã hội, đạo đức,.. để hòa hợp giai cấp. Đó là quan điểm duy tâm về vấn đề giai cấp.
Bên cạnh những quan điểm duy tâm nói trên, cũng có những quan điểm có căn cứ thuyết phục hơn. Chẳng hạn ở Hy Lạp, Platon cho rằng: Sự độc quyền quá lớn về của cải trong tay giai cấp quý tộc là nguy hiểm về mặt chính trị, vì nó đẻ ra những mâu thuẫn hết sức sâu sắc.
Khi chủ nghĩa tư bản hình thành, cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản với giai cấp địa chủ, quý tộc xuất hiện, quan niệm về giai cấp cũng như đấu tranh giai cấp trở nên rõ ràng hơn. Tômátmorơ (ở Anh), Tômađô Campanela (ở Italia) và Rútxô (ở Pháp) cũng đã nhìn thấy quyền tư hữu là gốc rễ của nhiều tai họa. Xanhximông (ở Pháp) còn đi xa hơn, ông cho rằng xác lập quyền sở hữu là cơ sở của kiến trúc xã hội, rằng lịch sử xã hội loài người là sự thay đổi những tiêu chuẩn của xã hội khác nhau dựa trên chế độ sở hữu.
Tuy nhiên, công lao phát hiện ra vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp được gắn liền với tên tuổi các nhà sử học Pháp như Phờrăngxoa Ghidô, Ôguýtxtanh, Chieri và Phờrăngxoa Milê, mặc dầu họ chưa lý giải được một cách khoa học về vấn đề giai cấp cũng như đấu tranh giai cấp. Theo quan điểm của các nhà sử học Pháp thì sự thay đổi về quan hệ tài sản, chủ yếu là quan hệ về ruộng đất đã đưa tới mối quan hệ giai cấp mới và sự thay đổi về quan hệ chính trị. Những tư tưởng của các nhà sử học Pháp tiến bộ đã được Mác, Ăngghen đánh giá cao. Mác nói rằng, bản thân ông không có công trong việc phát hiện vấn đề giai cấp. Lênin cũng đã nhấn mạnh: “Thuyết đấu tranh giai cấp không phải là do Mác mà do giai cấp tư bản trước Mác sáng tạo ra”. Cống hiến to lớn của Mác, Ăngghen về vấn đề giai cấp là ở chỗ: Mác đã đưa lại một quan niệm khoa học về giai cấp; xem xét vấn đề giai cấp trên cơ sở quan điểm duy vật về lịch sử.
Trong tác phẩm của mình, Mác và Ăngghen đã chỉ rõ: Giai cấp chỉ xuất hiện trên cơ sở sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định. Sự phân chia xã hội thành giai cấp là do nguyên nhân kinh tế mà trực tiếp là sự chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Chủ nghĩa Mác không chỉ nhìn thấy nguồn gốc của sự phân hóa giai cấp là do nguyên nhân kinh tế mà còn nhìn thấy đặc trưng cơ bản của các giai cấp cũng là đặc trưng kinh tế.
Kế thừa tư tưởng của nhân loại, đặc biệt là tư tưởng duy vật lịch sử của Mác và Ăngghen, Lênin đã đưa ra một định nghĩa về giai cấp.
2. Định nghĩa của Lênin về giai cấp:
Trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại” Lênin đã định nghĩa về giai cấp như sau:
“Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử; khác nhau về quan hệ của họ (thường thường những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất; về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng.
Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế, xã hội nhất định”.
Từ định nghĩa của Lênin, chúng ta có thể rút ra những đặc trưng cơ bản về giai cấp sau đây:
a. Giai cấp là những tập đoàn người to lớn có địa vị khác nhau trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định.
Điều này có nghĩa là sự phân chia giai cấp gắn liền với hệ thống sản xuất xã hội nhất định. Trong xã hội, có những hệ thống sản xuất chứa đựng trong lòng nó những yếu tố làm nảy sinh giai cấp như hệ thống sản xuất xã hội nô lệ, hệ thống sản xuất xã hội phong kiến, hệ thống sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ngược lại, có những hệ thống sản xuất xã hội không chứa đựng trong lòng nó những yếu tố phân chia giai cấp như hệ thống sản xuất xã hội cộng sản nguyên thủy, hệ thống sản xuất của xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu gọi là chủ nghĩa xã hội.
Hệ thống sản xuất xã hội quy định địa vị của các giai cấp, có giai cấp giữ địa vị thống trị, có giai cấp giữ địa vị bị thống trị. Trong các xã hội như nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa thì có giai cấp thống trị và giai cấp bị thống trị. Ngược lại, trong các hệ thống sản xuất xã hội như cộng sản nguyên thủy, cộng sản chủ nghĩa thì mọi người bình đẳng, không có giai cấp nên không có cái gọi là giai cấp thống trị và giai cấp bị thống trị. Những giai cấp có địa vị thống trị hay không có địa vị thống trị nền sản xuất xã hội là do các giai cấp chiếm đoạt được, hay không chiếm đoạt được những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Nghĩa là chế độ sỡ hữu về tư liệu sản xuất quy định địa vị của các giai cấp trong nền sản xuất xã hội.
b. Các giai cấp có quan hệ khác nhau về quyền sỡ hữu đối với tư liệu sản xuất.
Đặc trưng này nói lên rằng trong xã hội, nếu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội chỉ thuộc quyền sở hữu của một giai cấp nào đó, còn các giai cấp khác không có quyền sở hữu đó thì quan hệ giữa các giai cấp là hoàn toàn bất bình đẳng. Nghĩa là giai cấp nào chiếm đoạt được những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì giai cấp ấy sẽ giữ quyền thống trị nền sản xuất xã hội, giữ quyền tổ chức quản lý sản xuất và cùng giữ quyền phân phối sản phẩm do xã hội tạo ra. Đây chính là vấn đề đã được nêu ra là: giai cấp xuất hiện do nguyên nhân kinh tế mà trực tiếp là do chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất quy định. Đây là đặc trưng không chỉ vạch ra nguồn gốc ra đời của giai cấp mà còn là đặc trưng chi phối các đặc trưng khác.
c. Các giai cấp có vai trò khác nhau trong việc tổ chức lao động xã hội.
Đặc trưng này cũng do đặc trưng thứ hai nói trên quy định. Nghĩa là trong xã hội, giai cấp nào chiếm đoạt những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì giai cấp ấy sẽ giữ lấy quyền tổ chức, quản lý nền sản xuất xã hội, còn những giai cấp không có tư liệu sản xuất thì chỉ là những giai cấp làm thuê bán sức lao động mà thôi.
d. Các giai cấp có những phương thức và qui mô thực tiễn nhập khác nhau về của cải của xã hội.
Đặc trưng này cũng do đặc trưng thứ hai quy định. Nghĩa là trong xã hội, giai cấp nào chiếm đoạt những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì giai cấp ấy không những giữ địa vị thống trị hệ thống sản xuất xã hội, giữ lấy quyền tổ chức, quản lý sản xuất, mà còn giữ quyền phân phối sản phẩm.
Bốn đặc trưng cơ bản nêu trên có quan hệ biện chứng với nhau, trong đó đặc trưng thứ hai là cơ bản nhất. Thiếu một trong bốn đặc trưng, nhất là đặc trưng hai thì không thể giải thích đúng về giai cấp.
3. Ý nghĩa của định nghĩa đối với việc xem xét vấn đề giai cấp ở nước ta hiện nay.
Ở nước ta hiện nay đang thực hiện sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Quá trình đó nhất thiết phải phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất khác nhau. Song cần thấy rằng sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể vẫn là sở hữu cơ bản chiếm ưu thế so với hình thức sở hữu khác. Tất cả các thành phần kinh tế quốc doanh, kinh tế hợp tác, cá thể và tư bản tư nhân,.. đều tồn tại bình đẳng và hoạt động trong khuôn khổ chính sách, pháp luật của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ta phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó có thành phần kinh tế tư bản tư nhân mà theo cách nói của Lênin là sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước làm khâu trung gian để đưa nền sản xuất nhỏ đi lên xã hội chủ nghĩa. Điều này dĩ nhiên nảy sinh mâu thuẫn khách quan giữa hai khuynh hướng phát triển kinh tế: một là sự phát triển được thực hiện tự giác (chủ động, có sự điều khiển, có mục đích) theo định hướng xã hội chủ nghĩa; hai là khuynh hướng tự phát phát triển tư bản chủ nghĩa. Do vậy cuộc đấu tranh cho mục tiêu xã hội chủ nghĩa của chúng ta hiện nay là đấu tranh chống khuynh hướng tự phát của tư bản chủ nghĩa.
Từ đó giúp ta nhận thức rằng, sẽ là ảo tưởng nếu cho rằng xã hội ta hiện nay không còn sự khác biệt giai cấp, không còn mâu thuẫn giai cấp. Thực tế hiện nay, Việt Nam đang tồn tại sự khác biệt giữa các giai cấp công nhân, nông dân, tư sản và các tầng lớp khác. Nhưng cũng sẽ là hết sức sai lầm phân chia giai cấp thành hai lực lượng xã hội đối lập. Đương nhiên khi còn thành phần kinh tế tư bản tư nhân thì vẫn còn mâu thuẫn giữa lao động và tư bản. Song tính chất của mâu thuẫn này đã khác trước do hoàn cảnh xã hội ta đã có những thay đổi căn bản. Ở đây, sự phát triển của giai cấp tư sản từ “tự nó” đến “vì nó” không còn là cái tất yếu khách quan trong xã hội ta. Còn giai cấp công nhân dù lao động ở thành phần kinh tế nào cũng có quyền làm chủ đất nước. Mâu thuẫn giữa tư bản và công nhân được giải quyết từng bước bằng sự quản lý của Nhà nước. Sự khác biệt giai cấp ở Việt Nam hiện nay là chưa có sự bình đẳng tuyệt đối về lợi ích kinh tế giữa các giai cấp, nhưng lại có sự thống nhất về lợi ích cơ bản (quyền lực chính trị) giữa công nhân, nông dân và các tầng lớp khác.
Tóm lại: cần vận dụng quan điểm mác-xít về giai cấp một cách sáng tạo vào hoàn cảnh nước ta, có vậy mới tránh được những khuynh hướng cực đoan sai lầm như quan điểm hữu khuynh mơ hồ, cũng như quan điểm tả khuynh giáo điều về giai cấp.
Câu 29: Đấu tranh giai cấp là gì? Phân tích vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng.
1. Đấu tranh giai cấp là gì?
Học thuyết Mác đã chỉ rõ: “ Đấu tranh giai cấp là đấu tranh giữa những tập đoàn mà lợi ích căn bản đối lập nhau và kết cục của cuộc đấu tranh giai cấp là đi đến một cuộc cách mạng xã hội để thay thế chế độ xã hội này bằng một chế độ xã hội khác tiến bộ hơn”.
Hiểu vắn tắt: đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có lợi ích căn bản đối lập nhau (lợi ích căn bản nói ở đây là lợi ích kinh tế, lợi ích cơ bản là quyền lực chính trị).
Như vậy, nguyên nhân của cuộc đấu tranh giai cấp là do sự đối lập nhau về địa vị kinh tế và mâu thuẫn về lợi ích cơ bản giữa các giai cấp mà sinh ra.
Đấu tranh giai cấp không phải là do “sự hiểu lẩm”, “sự không hiểu biết lẫn nhau giữa các giai cấp”; “do chính sách không khôn khéo của nhà cầm quyền trong xã hội”, hoặc do “sự xúi dục của những phần tử ác ý”,.. như quan niệm của các nhà tư tưởng của các giai cấp bóc lột thường nêu ra để che đậy nguyên nhân của đấu tranh giai cấp.
Cũng cần thấy thêm rằng: trong xã hội có giai cấp đối kháng, đấu tranh của cá nhân trong giai cấp này chống cá nhân trong giai cấp khác mới chỉ là mầm mống của đấu tranh giai cấp chứ chưa quan niệm đó là đấu tranh giai cấp. Chỉ thực sự là đấu tranh giai cấp khi những cá nhân đó nhận thức một cách tự giác, thông qua những hoạt động có ý thức, có tổ chức của mình nhằm góp phần lật đổ giai cấp thống trị bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Chẳng hạn, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, đấu tranh của một người công nhân chỉ trở thành đấu tranh giai cấp khi nó nằm trong cuộc đấu tranh chung của toàn bộ giai cấp công nhân, chống lại toàn bộ giai cấp tư sản, nhằm lật đổ nền thống trị của giai cấp tư sản.
2. Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng.
Trong các xã hội có giai cấp đối kháng (chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản chủ nghĩa) thì đấu tranh giai cấp là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Vai trò là động lực thể hiện ở những điểm sau đây:
– Thông qua cuộc đấu tranh giai cấp thì mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất lỗi thời sẽ được giải quyết, từ đó thực hiện bước quá độ từ một chế độ xã hội lỗi thời sang một chế độ xã hội mới tiến bộ hơn.
Như đã biết: sự phát triển của xã hội xét đến cùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định. Nhưng sự phát triển của lực lượng sản xuất lại phụ thuộc vào việc lực lượng sản xuất mới có gạt bỏ được những quan hệ lỗi thời đang kìm hãm nó hay không. Nếu như không gạt bỏ được quan hệ sản xuất lỗi thời thì chứa đựng mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời đang kìm hãm nó. Mà mâu thuẫn giữa các lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời, biểu hiện về mặt xã hội chính là mâu thuẫn giữa giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất mới và giai cấp đại diện cho quan hệ sản xuất lỗi thời. Mâu thuẫn đó chỉ có thể được giải quyết bằng một cuộc đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là một cuộc cách mạng xã hội nhằm xóa bỏ quan hệ sản xuất lỗi thời, xác lập quan hệ sản xuất mới tiến bộ, từ đó làm cho xã hội phát triển đi lên. Do vậy mà nói, đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng.
– Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng không chỉ thể hiện trong thời kỳ cách mạng xã hội mà còn thể hiện trong cả thời kỳ hòa bình. Trong thời kỳ hòa bình, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chẳng hạn đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản tăng lợi nhuận bằng cách kéo dài ngày lao động đã buộc các chủ tư sản phải chú ý sử dụng kỹ thuật hoàn thiện hơn để nâng cao năng suất lao động, qua đó để rút ngắn thời gian lao động cần thiết cho công nhân, khi phong trào đấu tranh của công nhân đang đòi hỏi phải giảm bớt thời gian lao động. Các Mác có nhận xét rằng: ở nước Anh kể từ năm 1825 sự phát sinh và sử dụng máy móc chỉ là kết quả của cuộc đấu tranh giữa công nhân và chủ các xí nghiệp. Hoặc những cải cách tiến bộ ở một số nước nào đó cũng là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp ở trong nước và áp lực của đấu tranh giai cấp ở các nước khác trên thế giới tạo ra. Như thế chứng tỏ trong thời kỳ hòa bình, đấu tranh giai cấp vẫn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà sự phát triển của lực lượng sản xuất lại là nguyên nhân sâu xa của sự phát triển xã hội.
– Đấu tranh giai cấp không chỉ có tác dụng cải tạo xã hội, xóa bỏ các lực lượng xã hội phản động mà còn có tác dụng cải tạo cả bản thân các giai cấp cách mạng. Vì qua đấu tranh giai cấp, các giai cấp cách mạng được tôi luyện và trưởng thành lên về nhiều mặt như tư tưởng, lý luận, tổ chức,.. để đương đầu và chiến thắng giai cấp đối kháng.
Tóm lại: Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng. Đấu tranh giai cấp là quy luật chung, phổ biến của mọi xã hội có phân chia giai cấp. Song quy luật này lại có những biểu hiện đặc thù trong từng xã hội cụ thể do kết cấu giai cấp trong xã hội, do địa vị lịch sử của giai cấp cách mạng trong từng phương thức sản xuất, do tương quan lực lượng giai cấp trong từng giai đoạn và trên từng địa bàn quyết định. Do vậy, muốn hiểu đúng quy luật đấu tranh giai cấp còn phải phân tích cụ thể những điều kiện lịch sử cụ thể.
Câu 30: Phân tích quan điểm của triết học Mác-Lênin về nguồn gốc và bản chất của Nhà nước.
Nhà nước là gì?
Nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế lập ra nhằm bảo vệ chế độ kinh tế hiện có và đàn áp các giai cấp khác.
Nhà nước là cơ quan quyền lực chính trị của giai cấp thống trị, là một tổ chức quan trọng nhất trong các tổ chức chính trị của giai cấp cầm quyền dùng để thống trị xã hội.
Nhà nước là một phạm trù lịch sử, không đồng nghĩa với xã hội.
1. Nguồn gốc ra đời của Nhà nước.
Theo quan điểm của triết học Mác-Lênin thì nhà nước là một phạm trù lịch sử, nghĩa là nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển của lịch sử. Nhà nước sẽ mất đi khi những điều kiện tồn tại của nó không còn nữa. Trong lịch sử đã có một thời kỳ rất dài chưa có nhà nước và sau này nhà nước cũng sẽ mất đi khi điều kiện tồn tại của nó không còn.
Lịch sử phát triển của xã hội cho thấy rằng xã hội nguyên thủy, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, mọi người sống bình đẳng, chưa có giai cấp nên chưa có nhà nước. Đến xã hội chiếm hữu nô lệ, với sự ra đời của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng – chủ nô và nô lệ – thì mâu thuẫn giữa giai cấp chủ nô thống trị bóc lột và giai cấp nô lệ bị thống trị, bị bóc lột ngày càng sâu sắc. Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp nô lệ chống lại giai cấp chủ nô do vậy đã diễn ra ngày càng quyết liệt không thể điều hòa được. Để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình, đàn áp sự phản kháng của giai cấp nô lệ và buộc họ phải tuân theo trật tự do giai cấp mình đặt ra, giai cấp chủ nô đã lập ra một bộ máy bạo lực, trấn áp, bộ máy đó là nhà nước.
Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là Nhà nước chiếm hữu nô lệ. Đó là nhà nước xuất hiện trong cuộc đấu tranh không thể điều hòa được giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ.
Tiếp đó là nhà nước phong kiến và nhà nước tư bản chủ nghĩa mà sự xuất hiện của nó cũng dựa trên mâu thuẫn đối kháng nói trên.
Như thế là bất kỳ ở đâu và lúc nào khi mà mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì ở đó nhà nước sẽ xuất hiện. Cũng như thế, nơi nào có nhà nước xuất hiện và tồn tại thì chừng đó ở đó có mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Đó là nguồn gốc ra đời của Nhà nước.
Như Lênin đã viết: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì nhà nước sẽ xuất hiện và ngược lại, sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được”.
Như vậy sự ra đời của nhà nước là một tất yếu khách quan của xã hội có giai cấp đối kháng. Sau này, khi xã hội không còn phân chia giai cấp, không còn mâu thuẫn giai cấp đối kháng thì nhà nước cũng sẽ tự tiêu vong.
Hiện tại, nhà nước của giai cấp công nhân, gọi là nhà nước chuyên chính vô sản là một hình thức nhà nước quá độ, nhà nước không còn nguyên nghĩa của nó, là nhà nước “nửa nhà nước” để tiến tới xã hội không còn phân chia giai cấp, không còn nhà nước. Nhưng sự tồn tại của nhà nước chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ lại là một tất yếu vì nó là công cụ sắc bén trong tay giai cấp công nhân dùng để cải tạo triệt để xã hội cũ và xây dựng thành công xã hội mới.
2. Bản chất của nhà nước.
Nhà nước không phải là hiện tượng bẩm sinh, có sẵn, cũng không phải là được sinh ra từ bên ngoài xã hội rồi áp đặt vào xã hội; cũng không phải là cái do ý muốn chủ quan của một cá nhân hay một giai cấp nào đó quyết định, mà sự ra đời và tồn tại của nhà nước là một tất yếu khách quan do nhu cầu phải kiềm chế sự đối lập giữa các giai cấp, làm cho cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có lợi ích kinh tế đối kháng nhau không đi đến chỗ tiêu diệt nhau và giữ cho sự xung đột giai cấp nằm trong vòng trật tự của nó, đó là trật tự duy trì chế độ kinh tế mà trong đó giai cấp thống trị vẫn tiếp tục thống trị và bóc lột giai cấp bị thống trị.
Như vậy, bản chất của nhà nước là nền chuyên chính của một giai cấp này đối với một giai cấp khác và đối với toàn xã hội. Đương nhiên giai cấp lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước thường là giai cấp có thế lực nhất, đó là giai cấp nắm trong tay sức mạnh kinh tế và làm chủ tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Nhờ có bộ máy nhà nước mà giai cấp thống trị mặc dù là số ít trong dân cư nhưng lại duy trì được sự thống trị áp bức, bóc lột của mình đối với giai cấp bị thống trị, dù chiếm số đông trong xã hội.
Như Ăngghen đã nêu rõ: “Bản chất của nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy trấn áp của một giai cấp này đối với một giai cấp khác, điều đó trong chế độ cộng hòa dân chủ cũng hoàn toàn giống như trong chế độ quân chủ vậy”.
Với tư cách là bộ máy trấn áp của giai cấp này đối với giai cấp khác, nhà nước của các giai cấp bóc lột không thể “là một tổ chức công bằng”, “một trọng tài công minh” để bảo vệ lợi ích chung cho mọi giai cấp, cho giai cấp bóc lột và cả giai cấp bị bóc lột. Mà nhà nước của các giai cấp bóc lột là bộ máy được lập ra nhằm hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức của giai cấp đó đối với giai cấp bị trị và đối với quần chúng nhân dân lao động. Đó chính là bản chất của nhà nước của các giai cấp bóc lột, nhà nước theo đúng nghĩa của nó. Với bản chất đó, nhà nước là một bộ phận quan trọng nhất trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp. Tất cả mọi hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội do nhà nước tiến hành xét đến cùng đều xuất phát từ lợi ích và nhằm để phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị.
Câu 31: Các kiểu và các hình thức nhà nước đã có trong lịch sử. Đặc điểm của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
1. Các kiểu và các hình thức nhà nước đã có trong lịch sử.
Nhà nước là một bộ phận quan trọng của kiến trúc thượng tầng. Nhà nước bao giờ cũng được xây dựng trên một cơ sở kinh tế nhất định. Tùy thuộc vào nhà nước đó là bộ máy thống trị của giai cấp nào, phục vụ cho cơ sở kinh tế nào và tương ứng với hình thái kinh tế-xã hội nào mà có thể phân biệt các kiểu nhà nước khác nhau. Trong lịch sử đã tồn tại ba kiểu nhà nước của ba giai cấp thống trị, bóc lột khác nhau, đó là Nhà nước chiếm hữu nô lệ, Nhà nước phong kiến và Nhà nước tư bản chủ nghĩa.
Mỗi kiểu nhà nước nói trên lại được thể hiện bằng những hình thức khác nhau tùy theo bản chất của chế độ kinh tế, chính trị và tùy theo tương quan lực lượng giữa các giai cấp trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, mà giai cấp thống trị tổ chức nhà nước của mình theo những hình thức nhất định. Cụ thể:
a. Về kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ:
Đây là nhà nước tồn tại trong thời kỳ cổ đại và thực chất là nhà nước của giai cấp chủ nô.
Ở nhà nước này có hai hình thức phổ biến là:
– Chính thể quân chủ (quân chủ chủ nô).
– Chính thể cộng hòa (dân chủ chủ nô).
(Chính thể quân chủ là chính quyền của một số rất ít người đứng đầu. Chính thể cộng hòa là chính quyền do bầu cử mà có).
b. Về kiểu nhà nước phong kiến:
Đây là nhà nước ra đời vào thời trung cổ, được xây dựng trên cơ sở chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ quý tộc và mọi quyền hành thuộc về lãnh chúa phong kiến, nên đây là nhà nước của giai cấp phong kiến địa chủ.
Hình thức tổ chức của nhà nước phong kiến gồm có:
– Nhà nước phong kiến phân quyền.
– Nhà nước phong kiến tập quyền.
(Với nhà nước phong kiến phân quyền thì quyền lực được phân chia thành những quyền lực độc lập, theo từng địa phương, phân tán. Với nhà nước phong kiến tập quyền thì quyền lực tập trung vào tay một ông vua, vua có quyền lực tối đa, là người có uy quyền tuyệt đối, ý chí nhà vua là pháp luật).
c. Về kiểu nhà nước tư sản:
Đây là chính quyền của giai cấp tư sản nhằm để bảo vệ sự bóc lột của giai cấp tư sản đối với giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động.
Hình thức tổ chức phổ biến của kiểu nhà nước này là chế độ cộng hòa. Tuy nhiên ở nhiều nước lại được tổ chức dưới hình thức quân chủ lập hiến.
Nhà nước cộng hòa tư sản lại được tổ chức bằng nhiều hình thức cụ thể khác như:
– Chế độ cộng hòa
– Chế độ tổng thống
– Chế độ cộng hòa đại nghị
(Trong nhà nước quân chủ lập hiến thì vua là người đứng đầu quốc gia, nhưng chỉ đứng đầu trên danh nghĩa, không có thực quyền; nghị viện là cơ quan lập pháp; nội các là cơ quan nắm mọi quyền hành).
2. Đặc điểm của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam:
Ngoài ba kiểu nhà nước nêu trên, trong thời đại ngày nay còn có sự xuất hiện của một kiểu nhà nước mới, đó là Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa có bản chất giai cấp công nhân, đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể, tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa và toàn thể nhân dân lao động. Nhà nước xã hội chủ nghĩa do vậy khác với các kiểu nhà nước khác trong lịch sử, nó là nhà nước quá độ, nhà nước “nửa nhà nước”, nhà nước không còn nguyên nghĩa nhà nước và kiểu nhà nước này sẽ “tự tiêu vong” khi đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó. Nhưng trong thời kỳ quá độ, sự tồn tại của nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng là một tất yếu vì nó là công cụ có hiệu lực trong tay giai cấp công nhân dùng để cải tạo triệt để xã hội cũ và xây dựng thành công xã hội mới, một xã hội không phân chia giai cấp, không còn nhà nước.
Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam có những đặc điểm nổi bật sau đây:
– Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân là tổ chức để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (đây là đặc điểm chủ yếu).
– Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam vừa là một bộ máy chính trị, hành chính, một cơ quan cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân lao động. Đặc điểm này thể hiện sự kết hợp hai chức năng là trấn áp và tổ chức xây dựng, trong đó chức năng tổ chức xây dựng là chủ yếu.
– Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân và tính dân tộc, tính nhân dân.
Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là một tổ chức mà thông qua đó Đảng của giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với tiến trình phát triển của xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là để giữ vững bản chất giai cấp công nhân của bộ máy nhà nước, là điều kiện quyết định để bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động, bảo đảm cho Nhà nước thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Đặc điểm này vừa thể hiện bản chất vừa thể hiện mục đích của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Câu 32: Cách mạng xã hội là gì? Phân tích vai trò của cách mạng xã hội trong sự phát triển của xã hội.
1. Cách mạng xã hội là gì?
Cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt căn bản về chất trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, là bước nhảy vọt trong sự phát triển của xã hội mà kết quả là sự thay thế một hình thái kinh tế-xã hội này bằng một hình thái kinh tế-xã hội khác cao hơn, tiến bộ hơn.
Đặc trưng chủ yếu của cách mạng xã hội:
– Là sự thay đổi chính quyền nhà nước từ giai cấp thống trị lỗi thời sang tay giai cấp cách mạng.
– Thay đổi phương thức sản xuất cũ bằng phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn; xóa bỏ địa vị thống trị về kinh tế của giai cấp thống trị lỗi thời, xác lập địa vị thống trị kinh tế của giai cấp cách mạng và từ đó thay đổi tất cả các mặt của kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Như vậy, cách mạng xã hội không phải là một sự phát triển bình thường, tuần tự, mà là một bước nhảy vọt căn bản về chất trên toàn bộ các mặt của đời sống xã hội.
Những điểm cần phân biệt là:
– Cách mạng xã hội khác với đảo chính.
Đảo chính là sự chuyển chính quyền từ tay giai cấp thống trị này qua tay nhóm người khác lên thống trị mà không cần thay đổi bộ máy nhà nước, không hề thay đổi bản chất của chế độ xã hội.
– Cách mạng xã hội cũng khác với cải lương:
Cải lương chỉ là thay đổi xã hội bằng một số cải cách nhỏ nhặt, trên một số mặt nào đó của xã hội mà không hề thay đổi bản chất của chế độ xã hội. Chủ nghĩa cải lương đối lập với cách mạng xã hội vì nó gây ảo tưởng thay đổi chế độ xã hội mà không cần phải thực hiện một cuộc cách mạng xã hội.
– Cách mạng xã hội cũng khác với đổi mới xã hội (cải tạo hay cải cách xã hội):
Đổi mới xã hội chỉ là những thay đổi căn bản về chất trên từng mặt của đời sống xã hội, diễn ra trong phạm vi của một hình thái kinh tế-xã hội mà không dẫn đến sự thay thế một hình thái kinh tế-xã hội này bằng một hình thái kinh tế-xã hội khác cao hơn, tiến bộ hơn.
2. Vai trò của cách mạng xã hội trong sự phát triển của xã hội:
Cách mạng xã hội chính là phương thức để thay thế các hình thái kinh tế-xã hội:
Cách mạng xã hội do nhiều nguyên nhân như chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng,.. trong đó nguyên nhân kinh tế là nguyên nhân chủ yếu.
Nguyên nhân kinh tế là nguyên nhân chứa đựng trong bản thân phương thức sản xuất của xã hội. Đó chính là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất lỗi thời.
Trong các xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa các lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời được biểu hiện thành mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng, đó là mâu thuẫn giữa giai cấp cách mạng đại biểu cho lực lượng sản xuất mới và giai cấp thống trị đại biểu cho quan hệ sản xuất lỗi thời đang cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mâu thuẫn ấy chỉ có thể được giải quyết thông qua đấu tranh giai cấp và đấu tranh giai cấp khi đã phát triển đến mức gay gắt thì sẽ trở thành một cuộc cách mạng xã hội.
Trong các xã hội có giai cấp đối kháng, sự tồn tại của quan hệ sản xuất lỗi thời là cơ sở kinh tế để duy trì địa vị và quyền lực cơ bản của giai cấp thống trị. Ở đó giai cấp thống trị dùng mọi thủ đoạn, đặc biệt là sử dụng bộ máy nhà nước để bảo vệ và duy trì quan hệ sản xuất lỗi thời ấy. Ngược lại, giai cấp cách mạng và quần chúng nhân dân lao động cũng sử dụng mọi biện pháp đấu tranh, nhất là đấu tranh chính trị để nhằm xóa bỏ quan hệ sản xuất lỗi thời, thiết lập quan hệ sản xuất mới tiến bộ, thoát khỏi áp bức bóc lột, giành lấy lợi ích căn bản cho giai cấp mình.
Cuộc đấu tranh giai cấp này phát triển thành đấu tranh chính trị và khi đạt đến đỉnh cao thì chính là cuộc cách mạng xã hội. Qua cách mạng xã hội thì hình thái kinh tế-xã hội cũ bị xóa bỏ, hình thái kinh tế-xã hội mới ra đời, chế độ xã hội cũ bị xóa bỏ, chế độ xã hội mới ra đời thay thế nó. Đó là bước chuyển biến vĩ đại trong đời sống kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa-xã hội, là bước nhảy vọt tất yếu của xã hội có giai cấp đối kháng.
Nếu sau cuộc cách mạng đó, hình thái kinh tế-xã hội mới ra đời vẫn còn tình trạng bị áp bức bóc lột, vẫn còn tình trạng đối kháng giai cấp thì sự phát triển những mâu thuẫn nói trên sớm hoặc muộn lại dẫn đến một cuộc cách mạng xã hội mới để chuyển lên một hình thái kinh tế-xã hội mới cao hơn nữa.
Vì những lý do trên mà chúng ta nói rằng: cách mạng xã hội là phương thức thay thế hình thái kinh tế-xã hội này bằng hình thái kinh tế-xã hội khác cao hơn, tiến bộ hơn.
Thực tế lịch sử cho thấy rằng:
– Cuộc chuyển biến cách mạng trong lịch sử đã thực hiện bước chuyển từ cơ sở hạ tầng công xã nguyên thủy lên chế độ chiếm hữu nô lệ. Đó là sự thay thế hình thái kinh tế-xã hội nguyên thủy bằng hình thái kinh tế-xã hội chiếm hữu nô lệ. Sự biến chuyển này không phải thông qua cách mạng xã hội, mà là phát triển tất yếu của sản xuất vật chất xã hội dẫn đến sự phân công lao động xã hội quyết định.
– Cuộc cách mạng xã hội thứ nhất trong lịch sử đã thực hiện bước chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội chiếm hữu nô lệ sang hình thái kinh tế-xã hội phong kiến.
– Cuộc cách mạng xã hội thứ hai trong lịch sử là cuộc cách mạng tư sản nhằm lật đổ chế độ phong kiến và xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là sự thay thế hình thái kinh tế-xã hội phong kiến bằng hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa.
– Cuộc cách mạng xã hội thứ ba trong lịch sử là cuộc cách mạng vô sản đã và đang thực hiện bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Đây là cuộc cách mạng xã hội mới về chất, là cuộc cách mạng sâu sắc nhất, triệt để nhất trong lịch sử. Đó là sự thay thế hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Cũng cần thấy rằng, đứng về mặt tiến bộ lịch sử mà xét thì sự chuyển biến từ chế độ cộng sản nguyên thủy lên chế độ chiếm hữu nô lệ là tiến bộ xã hội. Chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ lên chế độ phong kiến mang tính chất cách mạng và có ý nghĩa cách mạng, song nó không phải là cuộc cách mạng xã hội điển hình.
Lịch sử có hai kiểu cách mạng xã hội điển hình mang đầy đủ những đặc trưng tiêu biểu của cách mạng xã hội. Đó là cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa và cuộc cách mạng vô sản xóa bỏ chế độ tư bản xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Câu 33: Phân tích nguyên nhân, những điều kiện khách quan và chủ quan của cách mạng xã hội.
1. Khái niệm cách mạng xã hội:
– Cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và căn bản về chất trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, là bước nhảy vọt trong sự phát triển xã hội mà kết quả là sự thay thế một hình thái kinh tế-xã hội này bằng một hình thái kinh tế-xã hội mới cao hơn.
– Đặc trưng của cách mạng xã hội là sự thay đổi chính quyền nhà nước từ tay giai cấp thống trị lỗi thời sang tay giai cấp cách mạng.
– Cách mạng xã hội đem lại sự thay đổi căn bản về chất trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vì vậy, nó khác với cải cách xã hội hoặc đảo chính.
2. Nguyên nhân của cách mạng xã hội
– Cách mạng xã hội có nhiều nguyên nhân về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng, nhưng nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân kinh tế.
– Nguyên nhân kinh tế được biểu hiện là những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất đã lỗi thời.
– Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn đó được biểu hiện thành mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng: giai cấp cách mạng đại biểu cho lực lượng sản xuất mới và giai cấp thống trị đại biểu cho quan hệ sản xuất lỗi thời. Cuộc đấu tranh giai cấp gay gắt sẽ chuyển thành cách mạng xã hội.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, sự tồn tại của quan hệ sản xuất lỗi thời là cơ sở kinh tế để duy trì địa vị và quyền lợi cơ bản của giai cấp thống trị, đối lập với lợi ích của quần chúng lao động. Giai cấp thống trị dùng mọi thủ đoạn, đặc biệt là bộ máy nhà nước, để bảo vệ quan hệ sản xuất lỗi thời. Ngược lại, quần chúng cách mạng phải tiến hành cuộc đấu tranh nhằm xóa bỏ quan hệ sản xuất đó. Cuộc đấu tranh đó phát triển thành đấu tranh chính trị và dẫn tới đỉnh cao là cách mạng xã hội.
– Nói một cách khái quát, nếu trong một hình thái kinh tế-xã hội vẫn có đối kháng giai cấp, thì sự phát triển của các mâu thuẫn trên, sớm hay muộn, sẽ dẫn tới cách mạng xã hội, để chuyển lên hình thái kinh tế-xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn.
3. Những điều kiện khách quan và chủ quan của cách mạng xã hội:
Muốn cho cách mạng xã hội nổ ra và thắng lợi, cần phải có sự kết hợp đầy đủ của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan.
a. Điều kiện khách quan:
Nguồn gốc sâu xa của cách mạng xã hội là nguyên nhân kinh tế. Song, ngoài nguyên nhân đó, cần có những điều kiện chính trị-xã hội, tức là những điều kiện mà trong đó mâu thuẫn giai cấp đã trở nên gay gắt, tạo nên một cuộc khủng hoảng chính trị trong toàn quốc, nghĩa là tạo nên tình thế cách mạng.
Lênin đã nêu ra ba đặc trưng của tình thế cách mạng xã hội:
– Giai cấp thống trị không thể duy trì được nền thống trị dưới hình thức bất di bất dịch. Sự khủng hoảng của giai cấp thống trị là sự mở đường cho sự phẫn nộ của giai cấp bị bóc lột. Bộ máy thống trị đã bị suy yếu nghiêm trọng.
– Nỗi cùng khổ, quẫn bách của giai cấp bị áp bức trở nên nặng nề hơn mức bình thường.
– Tính tích cực của quần chúng nhân dân được nâng lên rất nhiều, và họ sẵn sàng hành động vì cuộc đổi thay lịch sử.
Trong điều kiện phát triển hiện nay của chủ nghĩa tư bản hiện đại, một số vấn đề như chiến tranh và hòa bình, vấn đề sinh thái và những vấn đề toàn cầu khác cũng là những điều kiện khách quan đòi hỏi sự nhận thức đúng đắn về mục tiêu phương hướng phát triển của cách mạng xã hội trong điều kiện mới mà các Đảng cách mạng cần phải nhận thức đầy đủ hơn.
b. Nhân tố chủ quan:
Nhân tố chủ quan gắn liền với mỗi kiểu cách mạng xã hội và mức độ phát triển cũng khác nhau. Điều đó được biểu hiện:
– Năng lực lãnh đạo của giai cấp cách mạng mà đại biểu là chính đảng của nó, đặc biệt là năng lực nhận thức quy luật về cách mạng xã hội.
– Có đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn.
– Có năng lực tổ chức, tập hợp lực lượng quần chúng.
– Nắm vững tình thế và thời cơ cách mạng, và khi điều kiện cho phép, đảng cách mạng còn phải biết thúc đẩy cho tình thế cách mạng phát triển nhanh chóng.
Tóm lại, trong bất cứ hình thái kinh tế-xã hội nào, muốn cách mạng nổ ra và thắng lợi, phải là sự kết hợp giữa các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, kết hợp giữa tình thế, thời cơ cách mạng và khả năng lãnh đạo của các chính đảng cách mạng.
Câu 34: Tiến bộ xã hội là gì? Trình bày tiêu chuẩn và động lực của tiến bộ xã hội, từ đó vận dụng vào việc xem xét quá trình đổi mới ở nước ta.
1. Khái niệm tiến bộ xã hội:
Tiến bộ xã hội là quá trình phát triển phức tạp, đầy mâu thuẫn của xã hội, được xem như một hệ thống toàn vẹn, hoàn chỉnh từ hình thái kinh tế-xã hội thấp lên hình thái kinh tế-xã hội cao hơn, do các quy luật khách quan của xã hội chi phối và được thực hiện thông qua sự hoạt động có ý thức của con người.
2. Tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội:
– Tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội có ý nghĩa hạt nhân là tính chất tiên tiến của phương thức sản xuất, biểu hiện ở trình độ tiên tiến của lực lượng sản xuất, ở sự phù hợp của quan hệ sản xuất để mở ra khả năng cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, hoàn thiện và phát huy năng lực của con người.
– Tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội còn được thể hiện ở các thành tựu khoa học, các nguyên tắc quản lý, trạng thái chính trị, trình độ học vấn, bảo vệ sức khỏe, lối sống, ý thức lao động, thế giới quan, kỷ luật lao động, văn hóa lao động,.. ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất xã hội.
– Khi xem xét một hiện tượng lịch sử nào đó, cần phải có quan điểm khách quan cụ thể.
3. Động lực của tiến bộ xã hội:
– Nhân dân lao động là động lực chính của sự tiến bộ xã hội vì:
+ Sản xuất vật chất là nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế-xã hội.
+ Động lực chủ yếu của sự tiến bộ xã hội là lực lượng sản xuất. Trong lực lượng sản xuất, thì người lao động là yếu tố quyết định, là lực lượng trực tiếp sáng tạo xã hội.
– Khoa học tác động đến sự phát triển xã hội một cách mạnh mẽ, nhưng phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
– Lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế, là một trong những động lực quan trọng của sự tiến bộ xã hội.
– Động lực tiến bộ chung của lịch sử nhân loại là sản xuất vật chất.
– Trong xã hội có giai cấp, cuộc đấu tranh giai cấp cũng là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
4. Vận dụng vào quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay:
– Trong sự phát triển của xã hội ta hiện nay, trên nhiều mặt xã hội đang không ngừng phát triển, ngày càng đổi mới. Tuy nhiên, về lý luận, cần phải nhận thức được rằng, tăng trưởng và phát triển là hai khái niệm không đồng nhất. Có thể có tăng trưởng nhưng không hẳn là đã phát triển. Một số yếu tố trong nền kinh tế thị trường đã là sự chứng minh cho tính không đồng nhất trong quá trình phát triển.
– Mặt khác, cần phải phát huy một cách mạnh mẽ sự phát triển lực lượng sản xuất, đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ thuật, tiếp thu nền khoa học tiên tiến của thế giới để thực hiện sự công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
– Thực hiện chiến lược con người không ngừng nâng cao trình độ sức khỏe, văn hóa, kỹ thuật, kỹ năng và thói quen lao động của con người, để con người thực sự là nguồn lực quyết định trong sự phát triển xã hội.
– Kết hợp dân tộc với thời đại để vừa phát huy nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trong quá trình đổi mới.
– Phát triển toàn diện xã hội – về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,.. – trong sự hội nhập với quốc tế, bảo đảm sự phát triển lâu dài, bền vững, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và sự phát triển.
Câu 35: Phân tích quan điểm triết học Mác-Lênin về bản chất con người.
Thực chất của việc nghiên cứu bản chất con người là quá trình con người tự lấy mình làm đối tượng nghiên cứu và trả lời câu hỏi con người là gì, vai trò con người trong thế giới như thế nào?
1. Quan niệm chung về con người trong triết học trước Mác.
Có nhiều khoa học nghiên cứu về con người, và tiếp cận theo cách riêng của mình. Tuy nhiên, nếu có khoa học chuyên ngành nhận thức con người bằng cách chia hệ thống yếu tố thì ngược lại, triết học nghiên cứu con người bằng cách tổng hợp các yếu tố thành hệ thống.
Trong sự phát triển của triết học, có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất con người. Các nhà triết học thời cổ đại xem con người là vũ trụ thu nhỏ. Triết học tôn giáo xem con người là một thực thể nhị nguyên, là sự kết hợp giữa tinh thần và thể xác. Các học thuyết triết học duy tâm tuyệt đối hóa hoạt động của đời sống tinh thần, điển hình là hệ thống triết học duy tâm của Hêghen. Ông cho rằng con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối, là bước cuối cùng của cuộc diễn hành của ý niệm tuyệt đối trên trái đất. Phoiơbắc, một nhà triết học duy vật siêu hình, đã tuyệt đối hóa mặt sinh học của con người, chia cắt con người khỏi đời sống xã hội. Vì vậy, ông cũng không giải thích được bản chất thực sự của con người.
Như vậy, triết học trước Mác về căn bản đã giải thích bản chất con người trên lập trường duy tâm, do đó, không giải thích được nguồn gốc, bản chất thật sự của tồn tại người. Mặc dù vậy, nó vẫn đóng góp được những thành tựu làm tiền đề cho khoa học nghiên cứu con người.
2. Quan niệm của triết học Mác-Lênin về bản chất con người.
– Trên cơ sở tiếp thu có phê phán tư tưởng về con người của các nhà triết học trước đó trong lịch sử, C.Mác đã khẳng định rằng: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” (Luận cương về Phoiơbắc).
– Dựa vào những thành tựu của khoa học hiện đại, triết học Mác-Lênin xem sự tồn tại của con người và xã hội loài người bị quy định bởi:
+ Thứ nhất: các quy luật sinh vật học tạo thành phương diện sinh học của con người, như quy luật về sự phù hợp giữa cơ thể với môi trường, về quá trình trao đổi chất, về biến dị, di truyền và sự tiến hóa…
+ Thứ hai: các quy luật tâm lý-ý thức hình thành và hoạt động trên nền tảng sinh học của con người, như quy luật hình thành tư tưởng, tình cảm, khát vọng, mục tiêu, lý tưởng, niềm tin, ý chí…
+ Thứ ba: các quy luật xã hội đang quy định mối quan hệ giữa con người với con người, như quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, các quy luật về giai cấp và đấu tranh giai cấp…
Trong đời sống con người, ba hệ thống quy luật trên không tách biệt nhau, mà chúng hòa vào nhau, tác động lẫn nhau, tạo nên bản chất con người trong sự thống nhất của con người tự nhiên (cái sinh học) và con người xã hội (cái xã hội) trong một con người hiện thực.
– Bản chất tự nhiên của con người được biểu hiện ra bên ngoài là các nhu cầu tất yếu khách quan:
+ Nhu cầu ăn, mặc, ở, sinh hoạt văn hóa tinh thần.
+ Nhu cầu tái sản xuất xã hội.
+ Nhu cầu tình cảm, nhu cầu hiểu biết.
– Bản chất xã hội của con người được hình thành trong quan hệ con người với con người và con người với tự nhiên. Để duy trì sự tồn tại của mình, con người phải lao động. Vì vậy, lao động là yếu tố quyết định sự hình thành bản chất xã hội của con người. Bởi vì:
+ Thứ nhất: Lao động là nguồn gốc của nền văn minh vật chất và tinh thần.
+ Thứ hai: Lao động là nguồn gốc trực tiếp của sự hình thành ý thức.
+ Thứ ba: Trong lao động, con người quan hệ với nhau trong lĩnh vực sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng, để từ đó, hình thành các quan hệ xã hội khác trong đời sống tinh thần.
– Cần phải thấy rằng, không thể tách rời bản chất tự nhiên và bản chất xã hội, mà chúng là một thực thể thống nhất, trong đó, xã hội là phương thức cho con người thỏa mãn nhu cầu sinh học và nhu cầu sinh học càng thỏa mãn, con người càng trở nên là con người văn hóa, văn minh, ngày càng “người” hơn.
– Nhu cầu tự nhiên là mục đích của sự phát sinh những nhu cầu xã hội. Điều đó, có nghĩa rằng sản xuất ra đời sống vật chất là cơ sở quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người và con người.
3. Một số kết luận:
– Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội. Điều đó có nghĩa phải thừa nhận tính thống nhất không thể tách rời giữa con người sinh học và con người xã hội. Bản chất con người không là cái bẩm sinh mà luôn xuất hiện, tồn tại và phát triển dựa trên nền tảng tự nhiên của con người.
– Nhu cầu tự nhiên và nhu cầu xã hội ngày càng phát triển. Vì vậy, bản chất con người không phải sinh ra một lần là xong, mà nó gắn liền với quá trình phát triển của lịch sử-xã hội, gắn với quá trình con người không ngừng tự hoàn thiện mình.
– Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Tạo ra những điều kiện lịch sử, những tiền đề kinh tế-xã hội cho sự phát triển toàn diện của con người là mục đích vươn tới của chính bản thân con người.
Câu 36: Phân tích mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, cá nhân và xã hội, từ đó rút ra ý nghĩa của vấn đề này ở nước ta hiện nay.
1. Mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể.
– Khái niệm cá nhân là gì? Là cá thể người với tư cách là sản phẩm của sự phát triển xã hội, là chủ thể lao động của mọi quan hệ xã hội và của nhận thức. Cá nhân là một con người hoàn chỉnh trong sự thống nhất giữa những khả năng riêng có của người đó với chức năng xã hội do người đó thực hiện.
– Trong quan hệ xã hội, cá nhân biểu hiện ở các tư cách sau đây:
+ Là phương thức tồn tại của giống loài “người”
+ Là cá thể riêng lẻ, phần tử đơn nhất tạo thành cộng đồng xã hội
+ Là chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách.
+ Là cá thể được hình thành và phát triển trong mối quan hệ xã hội.
– Khái niệm tập thể? Tập thể là hình thức liên hệ cá nhân thành từng nhóm có tính chất xã hội, xuất phát từ lợi ích nhu cầu về kinh tế, chính trị, đạo đức, thẩm mỹ, quan điểm khoa học, tư tưởng, nghề nghiệp,.. Suy cho cùng, tập thể là sự liên kết về lợi ích giữa các cá nhân. Trong xã hội, có nhiều tập thể. Trong một tập thể vì thế đã bao gồm các tập thể con.
– Mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể là mối quan hệ biện chứng trong đó cá nhân như là một bộ phận của cái toàn thể. Cá nhân thể hiện bản sắc riêng biệt của mình thông qua tập thể nhưng không hòa tan vào tập thể.
Bản chất của mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể là quan hệ lợi ích. Đó là yếu tố móc nối, liên kết hoặc ngược lại là chia rẽ các thành viên trong tập thể. Tập thể có bao nhiêu thành viên thì có bấy nhiêu lợi ích cá nhân. Lợi ích cá nhân và tập thể được biểu hiện ra ở nhu cầu: nhu cầu vật chất và nhu cầu văn hóa tinh thần.
Trong sự tác động biện chứng mỗi cá nhân không tồn tại độc lập, cô lập hoàn toàn với những cá nhân khác và với tập thể. Đó cũng chính là cơ sở để hình thành tính tập thể, tính cộng đồng, tính nhân loại của nhân cách.
Xây dựng mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể cần chống lại hai khuynh hướng: tuyệt đối hóa tập thể, bắt cá nhân phải hy sinh một chiều; tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân một cách cực đoan theo chủ nghĩa cá nhân. Xây dựng mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể là xây dựng và bảo đảm tính hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể.
2. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
– Xã hội là một sản phẩm của mối quan hệ giữa người và người. Khái niệm xã hội được xác định trên các bình diện khác nhau. Nghĩa rộng là toàn thể loài người, còn nghĩa hẹp là từng quốc gia, dân tộc, chủng tộc, giai cấp,..
– Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng mà nền tảng là quan hệ lợi ích. Xã hội là điều kiện, là môi trường và phương thức để mỗi cá nhân thực hiện lợi ích của mình. Xã hội càng phát triển thì mỗi cá nhân càng thỏa mãn lợi ích vật chất và tinh thần. Thỏa mãn nhu cầu chính đáng của mỗi cá nhân là động lực và mục đích liên kết mọi thành viên trong xã hội. Đồng thời, mỗi cá nhân càng phát triển về thể lực và tài năng, trí tuệ thì càng có điều kiện để đóng góp phần mình vào sự thúc đẩy xã hội phát triển. Sự tác động của cá nhân tới xã hội tùy thuộc vào trình độ phát triển của nhân cách cá nhân.
– Xây dựng mối quan hệ cá nhân-xã hội là xây dựng và bảo đảm quan hệ hài hòa giữa nghĩa vụ-quyền lợi, giữa trách nhiệm-lợi ích của con người cá nhân trong các quan hệ xã hội.
3. Ý nghĩa của vấn đề này ở nước ta hiện nay.
Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, cá nhân và xã hội, chúng ta thấy có mặt khách quan và chủ quan. Mặt khách quan là trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội, nhằm đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội. Mặt chủ quan được biểu hiện ở sự nhận thức và vận dụng quy luật về sự kết hợp lợi ích cá nhân-xã hội.
Vì vậy, cần đảm bảo sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân, chống đặc quyền, đặc lợi. Tăng cường phát huy vai trò nhân tố con người trong quan trọng phát triển kinh tế-xã hội. Đồng thời, lấy việc phục vụ lợi ích con người làm mục đích cao nhất của toàn bộ mọi hoạt động, từ lợi ích kinh tế đến lợi ích chính trị, từ lợi ích vật chất đến lợi ích văn hóa tinh thần. Tất cả vì con người và cho con người. Giải quyết hài hòa mối quan hệ cá nhân-tập thể-xã hội là yêu cầu rất cơ bản để phát triển con người trong điều kiện xã hội ta hiện nay.
Câu 37: Phân tích mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong sự phát triển lịch sử, từ đó rút ra ý nghĩa của vấn đề này trong việc quán triệt bài học “lấy dân làm gốc”.
1. Các khái niệm:
– Khái niệm quần chúng nhân dân.
Là bộ phận dân cư có cùng chung lợi ích căn bản liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một thủ lĩnh, tổ chức hay đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của thời đại họ.
Khái niệm quần chúng nhân dân luôn được xác định bởi:
+ Những người lao động sản xuất ra của cải vật chất – hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân.
+ Những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị, áp bức bóc lột đối kháng với nhân dân.
+ Những giai cấp, những tầng lớp thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
– Khái niệm vĩ nhân-lãnh tụ:
Vĩ nhân-lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất, vĩ nhân, những người nắm bắt được vấn đề căn bản nhất trong một lĩnh vực nhất định của hoạt động lý luận, khoa học và thực tiễn, có thể là những anh hùng, nhà khoa học hay nhà hoạt động chính trị lỗi lạc, nguyện hy sinh quên mình cho lợi ích của quần chúng nhân dân.
Có thể khái quát vĩ nhân-lãnh tụ là những người có phẩm chất cơ bản sau đây:
+ Có tri thức khoa học uyên bác, nắm được xu thế vận động của dân tộc, quốc tế và thời đại.
+ Có khả năng tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của họ hướng vào một nhiệm vụ cụ thể của dân tộc, quốc tế hay thời đại.
+ Nguyện hy sinh quên mình cho lợi ích dân tộc, quốc tế và thời đại.
2. Mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và vĩ nhân-lãnh tụ trong sự phát triển của lịch sử.
Trước những bước ngoặt của dân tộc, quốc tế và thời đại, sự xuất hiện quần chúng nhân dân và vĩ nhân-lãnh tụ là tất yếu khách quan. Không có quần chúng nhân dân, không có vĩ nhân-lãnh tụ thì không có phong trào cách mạng. Song, vai trò của quần chúng nhân dân và vĩ nhân-lãnh tụ khác nhau:
– Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, là chủ thể của lịch sử, bởi vì:
+ Quần chúng nhân dân là người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và của cải tinh thần.
+ Là chủ thể của hoạt động cải tạo các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội.
+ Lợi ích của quần chúng nhân dân vừa là điểm khởi đầu, vừa là mục đích cuối cùng của các hành động cách mạng.
– Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, vĩ nhân-lãnh tụ có chức năng chủ yếu là:
+ Nắm bắt xu thế của dân tộc, quốc tế và thời đại trên cơ sở hiểu biết những quy luật khách quan của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội.
+ Định hướng chiến lược, hoạch định chương trình hành động cách mạng.
+ Tổ chức lực lượng, giáo dục thuyết phục quần chúng thống nhất hành động để hướng vào giải quyết những vấn đề then chốt nhất.
– Từ chức năng trên, quy định vai trò của vĩ nhân-lãnh tụ là:
+ Vĩ nhân-lãnh tụ là người có thể thúc đẩy nhanh tiến trình cách mạng, đem lại hiệu quả cao nhất cho hoạt động của quần chúng nhân dân, nếu vĩ nhân-lãnh tụ hiểu và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan. Song, vĩ nhân-lãnh tụ cũng là người có thể làm suy giảm hiệu quả của hành động cách mạng của quần chúng nhân dân nếu vĩ nhân-lãnh tụ thiếu tài, kém đức, và do đó lịch sử có thể phải trải qua những bước quanh co.
+ Không có vĩ nhân-lãnh tụ cho mọi thời đại. Mỗi vĩ nhân-lãnh tụ chỉ có thể là vĩ nhân-lãnh tụ của thời đại mình. Sau khi hoàn thành chức năng lãnh đạo quần chúng nhân dân, vĩ nhân-lãnh tụ đi vào lịch sử như những vĩ nhân, sống trong tâm tưởng, trong giá trị tinh thần của các thời đại sau.
+ Vĩ nhân-lãnh tụ thường là người sáng lập ra các tổ chức chính trị-xã hội, là linh hồn của tổ chức đó.
3. Ý nghĩa của vấn đề này trong việc quán triệt bài học “lấy dân làm gốc”.
– Vấn đề trên đặt cơ sở khoa học cho ta hiểu đầy đủ vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân, cách mạng là ngày hội của quần chúng nhân dân. “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân, Đảng ta lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
– Nó là cơ sở lý luận khoa học giúp chúng ta tránh hai khuynh hướng sai lầm: không thấy vai trò của quần chúng nhân dân, coi thường quần chúng nhân dân hoặc đề cao quá mức dẫn đến sùng bái vai trò của vĩ nhân-lãnh tụ.
– Vì vậy, cần phải thấy mối quan hệ biện chứng của vai trò đó là quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo lịch sử, vĩ nhân-lãnh tụ là người định hướng và thúc đẩy sự phát triển của lịch sử. Điều đó, càng trở nên có ý nghĩa trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
Câu 38: Tồn tại xã hội là gì? Phân tích vai trò của các yếu tố cấu thành tồn tại xã hội?
– Tồn tại xã hội là khái niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội, dùng để chỉ toàn bộ đời sống vật chất cùng toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
– Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố cơ bản là: hoàn cảnh địa lý, điều kiện dân số và phương thức sản xuất, trong đó, phương thức sản xuất là yếu tố giữ vai trò quyết định tính chất, kết cấu của xã hội, quyết định sự vận động và phát triển của xã hội.
+ Hoàn cảnh địa lý bao gồm các yếu tố như tài nguyên, khoáng sản, khí hậu, đất đai,.. là những yếu tố ảnh hưởng thường xuyên, tất yếu tới sự tồn tại và phát triển của xã hội, nhưng không giữ vai trò quyết định phát triển của xã hội. Ở những trình độ khác nhau của xã hội, mức độ ảnh hưởng của tự nhiên đối với xã hội có khác nhau.
Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến việc tổ chức phân công lao động và bố trí lực lượng sản xuất. Sự phong phú đa dạng của tự nhiên là cơ sở tự nhiên của việc phân công lao động trong xã hội. Tự nhiên có thể tạo điều kiện thuận lợi và cũng có thể gây khó khăn cho sản xuất.
Sự tác động của con người đến tự nhiên sẽ làm cho tự nhiên biến đổi theo hai hướng: làm cho tự nhiên phong phú thêm, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và đời sống con người; hoặc làm cho tự nhiên nghèo nàn đi, nó sẽ gây trở ngại trở lại đối với con người. C.Mác đã chỉ ra “nếu văn minh được phát triển một cách tự phát không có hướng dẫn một cách khoa học thì để lại sau đó một bãi hoang mạc”.
+ Điều kiện dân số bao gồm các yếu tố số dân, mật độ dân số, phân bố dân cư, tỉ lệ tăng dân số, là điều kiện thường xuyên tất yếu của sự phát triển xã hội, nhưng không giữ vai trò quyết định sự phát triển xã hội.
Điều kiện dân số ảnh hưởng đến nguồn lao động, tổ chức phân công lao động xã hội cũng như các chính sách phát triển văn hóa tinh thần khác. Việc phân bố dân cư không thể theo ý muốn chủ quan mà phải phụ thuộc trình độ phát triển của sản xuất và chế độ xã hội.
Vai trò của dân số ngày nay là vấn đề bùng nổ dân số. Nếu sản xuất có kế hoạch nhưng tăng trưởng dân số không có kế hoạch tự nó sẽ phá vỡ kế hoạch sản xuất. Nước ta hiện nay dân số tăng quá nhanh, muốn có cuộc sống văn minh, hạnh phúc thì nhiệm vụ kế hoạch hóa dân số và giải quyết việc làm cho người lao động phải là nhiệm vụ hàng đầu của chính sách xã hội.
+ Phương thức sản xuất là cách thức mà con người làm ra của cải vật chất. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Nó là nhân tố quyết định tính chất, kết cấu của xã hội và quyết định sự vận động, phát triển của xã hội qua các giai đoạn lịch sử. Khi phương thức sản xuất mới ra đời thay thế phương thức sản xuất cũ lỗi thời, thì mọi mặt của đời sống xã hội cũng có sự thay đổi căn bản theo. Lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch sử của các phương thức sản xuất kế tiếp nhau trong quá trình phát triển. Nghiên cứu những quy luật của lịch sử xã hội là nghiên cứu trong phương thức sản xuất do xã hội thực hiện trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, trong chế độ kinh tế-xã hội, chứ không phải tìm trong óc người, trong tư tưởng.
Câu 39: Trình bày khái niệm và kết cấu của ý thức xã hội?
– Ý thức xã hội là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Nó bao gồm tình cảm, tập quán, truyền thống, quan điểm, tư tưởng, lý luận,.. là sự phản ánh của tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau.
– Ý thức xã hội gồm nhiều cấp độ khác nhau: Ý thức sinh hoạt đời thường và ý thức lý luận, tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
+ Ý thức sinh hoạt đời thường và ý thức lý luận: sự phân chia này dựa vào sự khác nhau giữa nhân sinh quan trong thực tiễn cuộc sống chưa được hệ thống hóa với tập hợp những tư tưởng đã nghiên cứu một cách sáng tạo được hệ thống hóa thành lý luận thành học thuyết.
Ý thức sinh hoạt đời thường không có nghĩa là tầm thường tự phát, hoang dã hay ít có giá trị, mà nó lại bao hàm nội dung rộng lớn của cuộc sống. Tuy nó chưa có tính hệ thống, tính hợp lý và tính khoa học nhưng nó lại mang tính đầy đủ toàn vẹn của cảm giác sống, nó gắn với hiện thực trực tiếp của đời sống, phản ánh được những chi tiết gần gũi của đời sống. Chính kinh nghiệm của ý thức đời thường là cái kho để các khoa học tìm kiếm nội dung của mình.
Ý thức lý luận là toàn bộ tư tưởng, quan điểm của xã hội được hệ thống hóa thành hệ thống một cách hợp lý, thành chỉnh thể trong những khoa học cụ thể, nghệ thuật, triết học… Đặc điểm của ý thức lý luận là tính hệ thống, tính hợp lý, tính có hiểu biết về những mối liên hệ bản chất tất yếu của các hiện tượng xã hội, tính phản ánh trừu tượng khái quát bằng các phạm trù khái niệm.
– Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
+ Tâm lý xã hội là một bộ phận ở cấp độ ý thức sinh hoạt đời thường, trong đó xuất hiện những quan niệm và sự đánh giá đa dạng các hiện tượng xã hội, những lý tưởng, thị hiếu thẩm mỹ, những phong tục truyền thống, những thiên hướng và những hứng thú, hình ảnh, ước mơ…
Đặc điểm của tâm lý xã hội phản ánh trực tiếp điều kiện sống hàng ngày, phản ánh bề mặt của tồn tại xã hội, không có khả năng vạch ra bản chất và những nguyên nhân sâu xa các mối quan hệ vật chất xã hội. Nó mang tính chất kinh nghiệm chưa được thể hiện về mặt lý luận, những yếu tố trí tuệ thường trộn lẫn với những yếu tố tình cảm.
+ Hệ tư tưởng là bộ phận ở cấp độ ý thức lý luận, trong đó bao gồm sự đánh giá một cách có hệ thống về hiện thực xã hội, trên lập trường, quan điểm của một giai cấp, một Đảng nhất định, nêu ra nhiệm vụ và mục đích chính trị-xã hội: xây dựng hệ thống những quan điểm về quyền lực của giai cấp, của đảng phái đó.
Hệ tư tưởng phản ánh một cách sâu sắc về những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, nó là sự nhận thức lý luận về tồn tại xã hội dựa trên cơ sở khái quát những kinh nghiệm xã hội đã được tích lũy của những giai cấp, tập đoàn xã hội nhất định.
Hệ tư tưởng có thể là tư tưởng khoa học, cũng có thể phản khoa học tùy vào việc nó có phản ánh đúng đắn các mối quan hệ vật chất của xã hội hay không.
+ Giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội có mối quan hệ tác động lẫn nhau, do có chung một nguồn gốc là tồn tại xã hội và cùng phản ánh tồn tại xã hội. Tâm lý xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu hệ tư tưởng xã hội. Ngược lại, hệ tư tưởng xã hội lại củng cố và phát triển tâm lý xã hội. Nhưng hệ tư tưởng không nảy sinh trực tiếp từ tâm lý xã hội và cũng không là sự “cô đặc” của tâm lý xã hội.
– Ý thức xã hội là sự phản ánh điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, vì thế, trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội luôn mang tính giai cấp. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị của thời đại đó, các giai cấp khác thường chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị. Ý thức xã hội, ý thức giai cấp, ý thức cá nhân không phải bao giờ cũng là những khái niệm đồng nhất.
Câu 40: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận.
Tồn tại xã hội là toàn bộ đời sống vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Kết cấu của tồn tại xã hội gồm ba yếu tố: Điều kiện tự nhiên, điều kiện dân số và phương thức sản xuất do phương thức sản xuất quyết định.
Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, là sự phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử.
Giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội có mối quan hệ biện chứng trong đó tồn tại xã hội giữ vai trò quyết định và ý thức xã hội tác động trở lại đối với tồn tại xã hội.
Tính quyết định của tồn tại xã hội thể hiện ở: Tồn tại xã hội có trước, ý thức xã hội có sau; tồn tại xã hội thế nào thì ý thức xã hội thế đó; tồn tại xã hội biến đổi, đặc biệt là sự biến đổi của phương thức sản xuất dẫn đến sự biến đổi của ý thức xã hội. Vì vậy, không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng lý luận trong óc người mà phải tìm nó trong hiện thực vật chất. Không thể giải thích một cách đầy đủ sự biến đổi của một thời đại nào nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại đó. Tuy vậy, không phải bất cứ ý thức xã hội nào cũng trực tiếp phản ánh những quan hệ kinh tế của thời đại nó, mà chỉ xét đến cùng thì những quan hệ kinh tế mới được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong những tư tưởng đó.
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội thể hiện những mặt sau:
– Ý thức xã hội thường có tính lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Thông thường đó là thói quen, tập quán, truyền thống, niềm tin tôn giáo,.. Tính lạc hậu của ý thức xã hội bao giờ cũng cản trở đối sự phát triển của tồn tại xã hội.
– Những tư tưởng tiến bộ, khoa học thường vượt trước tồn tại xã hội, nó có vai trò định hướng, hướng dẫn cho hoạt động thực tiễn.
– Sự phát triển của ý thức xã hội luôn có tính kế thừa. Vì thế không thể chỉ dựa vào tồn tại xã hội, vào quan hệ kinh tế của một thời đại để giải thích nội dung ý thức của thời đại đó mà còn phải dựa vào quan hệ kế thừa của ý thức xã hội nữa.
– Trong sự phát triển, các hình thái ý thức xã hội luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau. Chính vậy, có những tính chất, những mặt của ý thức xã hội hoặc của mỗi hình thái ý thức xã hội không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hoặc bằng các quan hệ vật chất.
– Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội diễn ra theo hai hướng tích cực hoặc tiêu cực tùy thuộc vào ý thức xã hội là tiến bộ, khoa học hay lạc hậu, phản tiến bộ, phản khoa học.
Tuy vậy, vai trò của ý thức xã hội đối với tồn tại luôn phụ thuộc vào tính chất của các quan hệ kinh tế mà trên đó nảy sinh những tồn tại nhất định, và vai trò lịch sử của giai cấp giương cao ngọn cờ tư tưởng đó, phụ thuộc vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với nhu cầu phát triển xã hội, phụ thuộc vào mức độ thấm nhuần, mở rộng tư tưởng trong quần chúng nhân dân.
Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này:
Nếu chỉ thấy tính quyết định của tồn tại xã hội một cách may móc sẽ rơi vào duy vật tầm thường. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Trong hoạt động thực tiễn và nhận thức phải luôn đấu tranh khắc phục cả hai khuynh hướng đó. Trong cải tạo xã hội cũ, xã hội xã hội mới phải tiến hành cả trên hai lĩnh vực tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Câu 41: Khoa học là gì? Vai trò của khoa học đối với sự phát triển xã hội?
Khoa học là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống tri thức chân thực về thế giới được kiểm nghiệm qua thực tiễn.
– Đối tượng nhận thức của khoa học bao quát mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy. Hình thức biểu hiện của khoa học là phạm trù, định luật quy luật.
Xét về đối tượng nghiên cứu thì tri thức khoa học được chia thành khoa học tự nhiên-kỹ thuật (nghiên cứu các quy luật của tự nhiên và những phương thức chinh phục, cải tạo tự nhiên), khoa học xã hội (nghiên cứu các hiện tượng xã hội, các quy luật vận động và phát triển của xã hội). Các khoa học cụ thể nghiên cứu từng lĩnh vực, từng quy luật của thế giới. Triết học là khoa học nghiên cứu những vận động chung nhất, những quy luật chung nhất của thế giới (dĩ nhiên, mãi đến khi triết học Mác-Lênin ra đời thì triết học mới thực sự là một khoa học). Trong mỗi khoa học lại có cấp độ kinh nghiệm (sự tổng kết các quan sát và thử nghiệm), cấp độ lý luận (khái quát kinh nghiệm thành học thuyết, quy luật, nguyên lý…)
Xét về vai trò, tác dụng thì tri thức khoa học được chia thành khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng. Khoa học cơ bản vạch ra những quy luật, phương hướng, phương pháp chung cho các khoa học ứng dụng. Khoa học ứng dụng vạch ra những nguyên tắc, quy tắc, phương pháp cụ thể để ứng dụng trực tiếp vào hoạt động cải biến tự nhiên và xã hội. Sự phân chia này chỉ là tương đối.
Trong sự phát triển hiện nay của nhận thức khoa học, có những bộ môn khoa học có sự tương đồng lẫn nhau về đối tượng nghiên cứu (ví dụ: lý – sinh, sinh – hóa,..), vì thế các khoa học cũng làm phong phú lẫn nhau và xuất hiện các khoa học liên ngành.
– Vai trò của khoa học đối với sự phát triển xã hội có thể chia thành ba giai đoạn:
+ Giai đoạn từ thời cổ đại đến thế kỷ XV, khoa học còn rất sơ khai, bó hẹp trong một số lĩnh vực nhất định như thiên văn, toán học, cơ học… Nhằm đáp ứng các nhu cầu về tưới nước, hàng hải, xây dựng lâu đài, lăng tẩm. Tri thức khoa học ảnh hưởng đến sản xuất rất ít, thậm chí ở phương Tây thời Trung cổ, khoa học lệ thuộc vào thần học.
+ Giai đoạn thứ hai thừ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, khoa học trở thành một tiền đề của công nghiệp hóa, là nội dung tinh thần của lực lượng sản xuất, mà trước hết là tạo ra cơ sở lý luận để chế tạo những công cụ máy móc ngày càng hoàn thiện cho phép tiêu hao lao động sống ít mà đạt kết quả to lớn trong sản xuất vật chất. Khoa học xã hội đã đề cao chủ nghĩa nhân văn với tinh thần dân chủ sâu sắc, dần dần thoát khỏi các thuyết thần học.
+ Giai đoạn thứ ba trong thế kỷ XX: khoa học và kỹ thuật có sự kết hợp nhau thành một thể thống nhất. Khoa học đã phát hiện ra những đặc tính mới, quy luật mới của tự nhiên và sự sống, tạo ra và sử dụng những nguyên liệu mới có tác dụng nhiều mặt, tạo ra những dạng năng lượng mới cực mạnh, mở ra nhiều triển vọng to lớn để hiểu biết và phát hiện những tài nguyên mới trong vũ trụ và quả đất, tạo ra và ứng dụng kỹ thuật mới trong điều trị bệnh, lai tạo giống loài, điều chỉnh quá trình sống của động vật…
Khoa học đã và đang trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp làm cho cuộc sống và lao động của con người trở nên đỡ vất vả, tăng thêm quyền lực, trí tuệ của con người đối với tự nhiên, góp phần hoàn thiện các quan hệ xã hội, hoàn thiện nhân cách của con người, giúp con người phát triển hài hòa tự do, hạnh phúc. Khoa học đã mở rộng chân trời cho sự sống, sự sáng tạo những của cải vật chất và tinh thần dồi dào. Song dù sao thì khoa học cũng chỉ là phương tiện chứ không là mục đích, nó không là giá trị cao nhất của văn minh loài người.
Câu 42: Văn hóa là gì? Phân tích bản chất, chức năng và đặc điểm của sự phát triển văn hóa.
1. Văn hóa là gì?
– Văn hóa theo nghĩa rộng là tổng hòa những giá trị vật chất và tinh thần cũng như các phương thức tạo ra chúng, kỹ năng sử dụng các giá trị đó vì sự tiến bộ của loài người và sự truyền thụ giá trị đó từ thế hệ này sang thế hệ khác.
– Xét trên quan điểm giá trị: văn hóa là trình độ phát triển của các quan hệ nhân tính của một xã hội, của mỗi con người, nó được cộng đồng khẳng định và giữ gìn như những hệ giá trị đặc trưng cho bản sắc của dân tộc, quốc gia trong hệ chuẩn cơ bản: là CHÂN – THIỆN – MỸ.
– Phân biệt khái niệm văn hóa và văn minh
Văn hóa hiểu một cách tổng quát là tổng hòa những giá trị vật chất và tinh thần của loài người, nhưng trong các thời kỳ phát triển khác nhau của văn hóa thì sự sáng tạo của họ cũng có sự khác nhau. Trong các thời kỳ đó đều có những đặc trưng riêng và để chỉ từng thời kỳ đặc trưng văn hóa đó người ta dùng khái niệm văn minh. Ví dụ như: văn minh đồ đá, văn minh đồ đồng, văn minh đồ sắt, văn minh phương Đông, văn minh phương Tây… Vậy văn minh là một khái niệm dùng để chỉ một thời kỳ đặc trưng hay một vùng đặc trưng để so sánh với các thời kỳ khác nhau, các vùng khác nhau trong sự phát triển xã hội. Nó chính là thước đo trình độ phát triển của văn hóa trong mỗi vùng hay mỗi thời kỳ nhất định.
2. Bản chất và chức năng của văn hóa:
Với khái niệm trên văn hóa được chia thành văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
– Văn hóa vật chất: là toàn bộ những giá trị sáng tạo của con người được thể hiện trong các của cải vật chất do xã hội tạo ra, kể từ các tư liệu sản xuất cho đến các tư liệu tiêu dùng của xã hội.
Trong các giai đoạn phát triển khác nhau của sự phát triển xã hội thì sản phẩm do xã hội tạo ra cũng khác nhau, đó chính là sự phản ánh các giai đoạn phát triển khác nhau của văn hóa.
– Văn hóa tinh thần: là toàn bộ những giá trị của đời sống tinh thần bao gồm khoa học và mức độ áp dụng những thành tựu khoa học vào sản xuất và sinh hoạt, trình độ học vấn, tình trạng giáo dục, y tế, nghệ thuật, chuẩn mực đạo đức trong hành vi của các thành viên xã hội, trình độ phát triển nhu cầu của con người. Văn hóa tinh thần còn bao gồm cả những phong tục, tập quán, những phương thức giao tiếp và ngôn ngữ.
– Ranh giới giữa văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần chỉ có tính tương đối.
– Văn hóa có tính khách quan. Tuy xuất hiện với tính cách là sản phẩm của con người nhưng theo dòng lịch sử, những thành tựu ấy tựa hồ như siêu thời gian tạo ra truyền thống và không phụ thuộc vào cá nhân riêng lẻ mà với tư cách là một thực thể được phát triển về mặt xã hội.
– Văn hóa là một biểu hiện xã hội không chỉ bao quát quá khứ, hiện tại mà còn trải qua trong tương lai. Văn hóa quá khứ trong những tấm gương tốt đẹp cùng tham dự và sống lại với hiện tại và con người sống và sáng tạo hôm nay lại truyền thụ tư tưởng của mình, kết quả lao động của mình cho những thế hệ thay thế mình theo dòng lịch sử.
– Văn hóa là thuộc tính bản chất, tộc loại của con người với các chức năng, giáo dục, nhận thức, định hướng, đánh giá, xác định, chuẩn mực của hành vi, điều chỉnh các quan hệ ứng xử, giao tiếp. Song cốt lõi trong các chức năng của các giá trị văn hóa đem lại là chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo đức. Không có tính đạo đức thì tất cả các giá trị (giá trị vật chất và giá trị tinh thần) sẽ mất đi mọi ý nghĩa. Ngày nay nền văn hóa nhân loại với tất cả tầm vóc của nó gợi cho con người điều tự hào cao cả và tinh thần trách nhiệm, bên cạnh đó con người không thể không lo lắng và thậm chí cả sợ hãi trước vô số những vấn đề của thế giới hiện đại.
3. Đặc điểm của sự phát triển văn hóa.
– Lịch sử phát triển của các yếu tố văn hóa không đồng đều. Trong cùng một giai đoạn có thể mặt này phát triển mặt kia lạc hậu. Có mặt phát triển nhanh hơn hay chậm hơn so với kinh tế. Song xét trong toàn bộ quá trình lịch sử thì văn hóa ngày càng phát triển và sự phát triển của văn hóa là do kinh tế, do phương thức sản xuất quy định.
– Văn hóa tinh thần của một hình thái kinh tế-xã hội xuất hiện và phát triển trên cơ sở vật chất cụ thể và phản ánh trình độ phát triển nhất định của tồn tại vật chất. Song do các yếu tố khác nhau của văn hóa tinh thần gắn liền với cơ sở vật chất cũng không giống nhau. Một số gắn trực tiếp với cơ sở vật chất như là khoa học tự nhiên, kỹ thuật… Có một số lại gắn một cách gián tiếp như triết học, nghệ thuật, đạo đức, thẫm mỹ…
– Sự phát triển của văn hóa mang tính kế thừa.
Trong bất kỳ giai đoạn phát triển nào của văn hóa cũng đều có sự kế thừa văn hóa xã hội đã đạt được trong các giai đoạn trước. Các giai cấp tiên tiến bao giờ cũng biết nắm lấy những thành tựu văn hóa đã đạt được của quá khứ, trên cơ sở đó tiếp thu chọn lọc cải tạo một cách có phê phán bổ sung làm cho nó ngày càng phát triển. Tính liên tục trong quá trình phát triển của văn hóa là một đặc điểm quan trọng mà ngay cả lúc chuyển biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội khác cũng không thể bị phá vỡ.
– Sự phát triển của văn hóa còn có đặc điểm là giữa các yếu tố cấu thành của văn hóa có mối quan hệ tác động lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Sự liên hệ tác động qua lại lẫn nhau đó có thể trực tiếp hoặc gián tiếp, có thể diễn ra trong một thời gian tương đối ngắn cũng có thể diễn ra trong một thời gian tương đối dài. Sự kế thừa và tác động lẫn nhau giữa các yếu tố cấu thành của văn hóa diễn ra trong quá trình phát triển của nó so với chế độ kinh tế, phương thức sản xuất.
– Hiện nay Đảng và nhân dân ta đang xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bản sắc đó được thể hiện trong hệ giá trị tình thần của cộng đồng dân tộc Việt Nam. “Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý chí cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – tổ chức; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong đời sống…” (Văn kiện Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương khóa VIII). Đó là nền tảng tinh thần to lớn để nhân dân ta xây dựng một xã hội phát triển, tiến bộ, công bằng và nhân ái.
Tuy nhiên ở nước ta hiện nay, nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa mới được hình thành, chưa có sự phát triển đầy đủ, chưa có một thế phòng ngự vững chắc để chống lại các văn hóa độc hại và đồi trụy. Trước tình hình đó: “Việc tạo ra môi trường văn hóa của chủ nghĩa xã hội, trong đó có sự kết hợp hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn là trách nhiệm to lớn của toàn Đảng và của toàn dân ta”…
Tham khảo trọn bộ tài liệu ôn thi môn học Triết học Mác Lê Nin: https://study.phapche.edu.vn/khoa-hoc-tim-hieu-mon-triet-hoc-mac—le-nin?ref=lnpc
Mời bạn xem thêm: