Sơ đồ bài viết
Sinh viên tốt nghiệp cử nhân luật hoàn toàn có thể trở thành tư vấn viên pháp luật. Để thực hiện điều này, họ cần phải đáp ứng các yêu cầu và điều kiện theo quy định pháp luật, bao gồm việc có chứng chỉ hành nghề tư vấn pháp luật, và thực hiện các bước cần thiết như đăng ký và được cấp phép hành nghề. Công việc tư vấn viên pháp luật không chỉ đòi hỏi kiến thức vững về luật mà còn yêu cầu kỹ năng giao tiếp và tư duy pháp lý nhạy bén để cung cấp các giải pháp pháp lý chính xác và hiệu quả cho khách hàng. Cùng tìm hiểu thêm trong bài viết “Sinh viên tốt nghiệp cử nhân luật có thể làm tư vấn viên pháp luật không?” của Học viện đào tạo pháp chế ICA nhé!
Người thực hiện tư vấn pháp luật là những ai?
Theo quy định tại Điều 18 Nghị định 77/2008/NĐ-CP về người thực hiện tư vấn pháp luật bao gồm:
- Tư vấn viên pháp luật;
- Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động cho Trung tâm tư vấn pháp luật;
- Cộng tác viên tư vấn pháp luật.
Sinh viên tốt nghiệp cử nhân luật có thể làm tư vấn viên pháp luật không?
Căn cứ theo khoản 1 Điều 19 Nghị định 77/2008/NĐ-CP quy định như sau:
Điều 19. Tư vấn viên pháp luật
- Tư vấn viên pháp luật là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có đủ tiêu chuẩn sau đây: a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, phẩm chất đạo đức tốt, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã bị kết án mà chưa được xóa án tích; b) Có bằng cử nhân luật; c) Có thời gian công tác pháp luật từ ba năm trở lên.
- Tư vấn viên pháp luật được cấp Thẻ tư vấn viên pháp luật và được hoạt động trong phạm vi toàn quốc. Công chức đang làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân không được cấp Thẻ tư vấn viên pháp luật.
Như vậy, sinh viên tốt nghiệp cử nhân luật có thể trở thành tư vấn viên pháp luật nếu đáp ứng đủ các tiêu chuẩn sau:
- Là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam.
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, phẩm chất đạo đức tốt.
- Không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã bị kết án mà chưa được xóa án tích.
- Có thời gian công tác pháp luật từ 3 năm trở lên.
Các hành vi bị nghiêm cấm đối với tư vấn viên pháp luật là gì?
Căn cứ theo Điều 18 và Điều 4 Nghị định 77/2008/NĐ-CP quy định như sau:
Điều 18. Người thực hiện tư vấn pháp luật
Người thực hiện tư vấn pháp luật bao gồm:
- Tư vấn viên pháp luật;
- Luật sư hành nghề làm việc theo hợp đồng lao động cho Trung tâm tư vấn pháp luật;
- Cộng tác viên tư vấn pháp luật.
Điều 4. Các hành vi bị nghiêm cấm
Tổ chức tư vấn pháp luật và người thực hiện tư vấn pháp luật bị nghiêm cấm thực hiện các hành vi sau:
a) Xúi giục cá nhân, tổ chức yêu cầu tư vấn pháp luật cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật, khiếu nại, tố cáo, khởi kiện trái pháp luật;
b) Lợi dụng hoạt động tư vấn pháp luật để trục lợi;
c) Lợi dụng hoạt động tư vấn pháp luật để gây mất trật tự, an toàn xã hội, ảnh hưởng xấu đến đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, hoặc xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức;
d) Tư vấn pháp luật cho các bên có quyền lợi đối lập trong cùng một vụ việc, tiết lộ thông tin về vụ việc, cá nhân, tổ chức yêu cầu tư vấn pháp luật, trừ trường hợp được sự đồng ý của cá nhân, tổ chức yêu cầu tư vấn pháp luật hoặc pháp luật có quy định khác.
Cá nhân, tổ chức yêu cầu tư vấn pháp luật và các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan cũng bị nghiêm cấm thực hiện các hành vi sau:
a) Xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người thực hiện tư vấn pháp luật;
b) Cố tình cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật về vụ việc;
c) Cản trở hoạt động tư vấn pháp luật.
Như vậy, các hành vi bị nghiêm cấm đối với tư vấn viên pháp luật bao gồm việc xúi giục cung cấp thông tin sai sự thật, lợi dụng để trục lợi, gây mất trật tự xã hội, tư vấn cho các bên có quyền lợi đối lập, và tiết lộ thông tin không được phép.
Mời bạn xem thêm:
- Quy định pháp luật về giao dịch bảo đảm như thế nào?
- Vi bằng là gì? Quy định pháp luật về vi bằng
- Khóa học tìm hiểu về lịch sử nhà nước và pháp luật online
Câu hỏi thường gặp:
Căn cứ theo khoản 6 Điều 23 Nghị định 77/2008/NĐ-CP khi tư vấn viên pháp luật gây ra lỗi trong quá trình thực hiện tư vấn thì phải có nghĩa vụ bồi hoàn thiệt hại đó.
Tiêu chuẩn đối với Tư vấn viên pháp luật được quy định tại Điều 19 Nghị định 77/2008/NĐ-CP năm 2008 công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam cần phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện nêu trên để trở thành một cộng tác viên tư vấn pháp luật.