Sơ đồ bài viết
Trong thực tế cuộc sống hiện nay, hệ thống pháp luật được xây dựng và hình thành để điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội với mục đích đảm bảo trật tự xã hội dựa trên các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành. Cùng với đó là các tình trạng xã hội khi pháp luật được các tổ chức xã hội, cơ quan có thẩm quyền và mọi công dân thực hiện tuân theo một cách nghiêm chỉnh thì đó được xe là tình trạng pháp chế của một đất nước. Vậy pháp chế, pháp luật được hiểu cụ thể là như thế nào? Điểm giống nhau giữa pháp luật và pháp chế là gì? Bạn đọc hãy cùng Học viện đào tạo pháp chế ICA tìm hiểu về vấn đề này tại nội dung bài viết dưới đây nhé!
Quy định pháp luật về pháp chế như thế nào?
Theo hệ thống pháp luật hiện nay và đời sống thực tiễn của pháp luật thì pháp chế được xác định bao gồm hệ thống pháp luật và việc thực hiện pháp luật trong cuộc sống.
Theo đó, một trật tự pháp luật hay một chế độ thì trong đó tất cả các tổ chức xã hội, các cơ quan Nhà nước và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác thì được xác định là pháp chế.
Pháp chế được biết đến là những thể chế pháp luật được xác lập trong toàn bộ đời sống xã hội từ các thiết chế, quan hệ xã hội, hoạt động, sinh hoạt của mọi chủ thể pháp luật trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đến các tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước theo như quy định.
Pháp chế có thể coi là tình trạng xã hội áp dụng các quy tắc đó trong thực tiễn. Theo như quy định của pháp luật thì người làm công tác pháp chế bao gồm:
– Thứ nhất, Công chức pháp chế được tuyển dụng, bổ nhiệm vào tổ chức pháp chế ở Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
– Thứ hai, cán bộ pháp chế được điều động, tuyển dụng vào tổ chức pháp chế ở các đơn vị quân đội nhân dân, công an nhân dân.
– Thứ ba, là những viên chức pháp chế được tuyển dụng, bổ nhiệm vào tổ chức pháp chế ở đơn vị sự nghiệp công lập.
Thứ tư, là những nhân viên pháp chế được tuyển dụng theo chế độ hợp đồng lao động vào tổ chức pháp chế ở doanh nghiệp nhà nước.
Như vậy, có thể thấy những chủ thể là công chức, cán bộ, viên chức và được công nhận theo quy định ở trên thì đều là người công tác tư pháp theo như quy định của pháp luạt Việt Nam hiện hành.
Bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước như thế nào?
Khi nhắc đến pháp chế, chúng ta không dễ để đưa ra được một định nghĩa đầy đủ vì nội hàm của khái niệm này rất rộng, nó bao hàm:
– Hệ thống pháp luật hoàn chỉnh;
Việc thực hiện pháp luật của cá nhân, tổ chức;
Giá trị to lớn trong quản lí nhà nước nói chung, trong quản lí hành chính nhà nước nói riêng, nếu:
– Pháp chế được bảo đảm thông qua đường lối chính tri của đảng cầm quyền. Đường lối chính trị của đảng không chỉ xác định phương hướng, mục tiêu mà còn xác định phạm vi nội dung các vấn đề cơ bản để pháp luật thể chế hoá;
– Pháp chế được bảo đảm thông qua các biện pháp xã hội và đạo đức, bởi vì nguồn gốc của pháp chế là pháp luật. Pháp luật không chỉ được bảo vệ và củng cố bởi các biện pháp cưỡng chế nhà nước mà nó còn chịu sự tác động của các biện pháp giáo dục quần chúng, bằng dư luận xã hội, bằng phong trào quần chúng, bằng truyền thống văn hóa và đạo đức con người. Các yếu tố này liên quan mật thiết với nhau tạo nên tổng thể các biện pháp để củng cố và duy trì pháp chế.
– Pháp chế được bảo đảm thông qua chế độ kinh tế của xã hội. Pháp luật không thể tách rời chế độ kinh tế sinh ra nó. Chế độ kinh tế xã hôi chủ nghĩa không chỉ là mảnh đất tốt mà còn là nền tảng để xây dựng pháp chế và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Pháp chế và chế độ kinh tế luôn quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ tích cực cho nhau. Nếu xây dựng chế độ kinh tế tách rời quá trình bảo đảm pháp chế thì không những chế độ kinh tế ấy không có điều kiện tồn tại mà pháp chế cũng không có ý nghĩa gì trong thực tế. Pháp luật phải được xây dựng trên cơ sở hài hoà, thống nhất với chế độ kinh tế của xã hội đó.
– Sau cùng, pháp chế được bảo đảm thông qua các yếu tố pháp lí như thể chế pháp lí, chế định pháp lí, công cụ pháp lí, hình thức và các biện pháp pháp lí. Đây chính lý do là những bảo đảm pháp lí cơ bản có tác dụng thiết thực để xây dựng Nhà nước, xây dựng và hoàn thiện quyền công dân, quyền con người.
Đại biểu Quốc hội phải thật sự là nhà lập pháp, hội đồng nhân dân các cấp có thực quyền để thực hiện đầy đủ vai trò của cơ quan đại diện của nhân dân địa phương, cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, thực hiên quyền làm chủ của nhân dân ở từng cấp; các cơ quan hành chính Nhà nước phải thật sự là bộ máy điều hành có năng lực và hiệu quả trong tổ chức, vận dụng sáng tạo các biện pháp quản lí trong điều hành và chỉ đạo thường xuyên, chủ động trong việc thực hiên chức nâng, nhiệm vụ của mình; các cơ quan tư pháp là nơi giữ cán cân công lí, là nơi mà người lao động tìm thấy lẽ công bằng;
– Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ và năng lực đáp ứng yêu cầu của việc thực hiện nhiệm vụ và công vụ được giao;
– Có nguồn kinh phí đáp ứng đầy đủ yêu cầu của công cuộc đổi mới để thực hiện pháp luật, để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;
– Xử lí nghiêm minh mọi trường hợp vi phạm pháp luật bất kể họ là ai, ở cấp nào để khẳng định pháp luật là công bằng, bất kì cơ quan, tổ chức và cá nhân nào cũng chịu sự điều chỉnh của pháp luật, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Pháp luật bảo vê quyền và lợi ích hợp pháp của mọi chủ thể nhưng pháp luật cũng là phương tiện để Nhà nước ta xử lí nghiêm minh những hành vi vi phạm lợi ích của xã hôi và con người;
– Nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của công dân, coi đó là điều kiện tiên quyết để đưa pháp luật vào cuộc sống và người lao động có đủ điều kiện để tự bảo vệ mình. Muốn được như vậy, công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật phải được coi trọng, phải được thực hiện thường xuyên bằng nhiều hình thức và biện pháp khác nhau;
Điểm giống nhau giữa pháp luật và pháp chế là gì?
Ở nước ta hiện nay, trong giáo trình của các cơ sở đào tạo luật học cũng như trong sách báo pháp lý tồn tại nhiều định nghĩa về pháp luật dưới góc độ là pháp luật thực định. Tuy nhiên, có thể nói, các định nghĩa đó cơ bản chỉ khác nhau về câu chữ và thể hiện quan niệm về pháp luật với tư cách là một loại quy tắc ứng xử của con người, một loại chuẩn mực xã hội, pháp luật có những điểm khác biệt cơ bản so với các loại chuẩn mực xã hội khác như đạo đức, phong tục tập quán… Pháp luật dưới góc độ tương tự, từ đó có thể hiểu:
Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích, định hướng của nhà nước.
Pháp chế và pháp luật xã hội chủ nghĩa có mối quan hệ mật thiết với nhau, sẽ cùng tham gia điều chỉnh các mối quan hệ xã hội và để đảm bảo an ninh, trật tự cho nhà nước.
Trên đây là chia sẻ của chúng tôi về nội dung Điểm giống nhau giữa pháp luật và pháp chế là gì?. Hi vọng bài viết hữu ích với bạn đọc.
Câu hỏi thường gặp:
– Bản chất giai cấp của pháp luật. Pháp luật do nhà nước ban hành phù hợp với ý chí nguyện vọng của giai cấp cầm quyền mà nhà nước là đại diện.
– Bản chất xã hội của pháp luật.
+ Các quy phạm pháp luật bắt nguồn từ thực tiễn đời sống xã hội, do thực tiễn cuộc sống đòi hỏi.
+ Pháp luật không chỉ phản ánh ý chí của giai cấp thống trị mà còn phản ánh nhu cầu, lợi ích của các giai cấp và các tầng lớp dân cư khác nhau trong xã hội.
+ Các quy phạm pháp luật được thực hiện trong thực tiễn đời sống xã hội, vì sự phát triển của xã hội.
Pháp luật có 03 đặc trưng cơ bản sau:
– Tính bắt buộc chung: Pháp luật do nhà nước ban hành và được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh của quyền lực nhà nước, là quy định bắt buộc với tất cả mọi cá nhân, tổ chức, ai cũng phải xử sự theo pháp luật, nếu không sẽ bị áp dụng những biện pháp cần thiết.
– Tính quy phạm phổ biến: Pháp luật là những quy tắc xử sự chung, là khuôn mẫu chung, được áp dụng nhiều lần, ở nhiều nơi, với tất cả mọi người, trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
– Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức: Hình thức thể hiện của pháp luật là các văn bản có chứa các quy phạm pháp luật được xác định chặt chẽ về hình thức, văn phong diễn đạt phải chính xác. Cơ quan ban hành văn bản và hiệu lực của văn bản được quy định chặt chẽ trong Hiến pháp hoặc luật.