Sơ đồ bài viết
Luật hình sự là một phần quan trọng trong hệ thống pháp luật của Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Được xây dựng và duy trì bởi nhà nước, nó bao gồm một hệ thống các quy định pháp luật được ban hành để xác định những hành vi nào được coi là nguy hiểm đối với xã hội và được xem là tội phạm. Ngành luật hình sự không chỉ tập trung vào việc xác định và đặt ra quy phạm pháp luật cho các hành vi phạm tội mà còn quy định các biện pháp xử lý hình phạt đối với những người thực hiện các hành vi này. Hệ thống này giúp đảm bảo trật tự và an ninh trong xã hội, bảo vệ quyền lợi và an toàn của cộng đồng. Tham khảo những Bài tập luật hình sự phần các tội phạm mà chúng tôi chia sẻ tại bài viết sau
Bài tập luật hình sự phần các tội phạm
Bài 1: Hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng người khác trái pháp luật không gây ra hậu quả chết người thì không cấu thành Tội giết người hay không?
Nhận định sai là hành vi khách quan của tôi giết người là hành vi tược đoạt tình mạng của người khác trái pháp luật. Tượt đoạn tình mạng của người khác được hiểu là hành vi tạc động trái pháp luật đến thân thể của người khác, khả năng thực tế gây ra chết người. Hậu quả của tôi phạm là nạn nhân tự vong. Dấu hiệu naay là cơ sở xác định thời điểm tôi phạm hoàn thành. Nếu hành vi giết người đã đưa đến hậu quả nạn nhân bị tự vong thì tôi phạm đã hoàn thành. Nếu nạn nhân chưa chết thì được coi là giết người chưa đạt. Vậy nếu hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng người khác, trái pháp luật nhưng không gây ra hậu quả chết người, vẫn cấu thành tội giết người (Điều 123 BLHS).
Bài 2: T, sau khi rút 50 triệu đồng tiền gửi từ ngân hàng, đang trên đường quốc lộ thì bị K tấn công. K sử dụng một con dao và dí vào cổ T, đe dọa rằng nếu T không đưa tiền, K sẽ thực hiện hành động đâm dao. Tuy nhiên, may mắn cho T, ngay lúc đó, quần chúng nhân dân gần đó đã phát hiện tình huống khẩn cấp và nguy hiểm. Không ngần ngại, họ nhanh chóng chạy tới và tập trung bắt giữ K, ngăn chặn hành động xâm hại và cướp tài sản của T.
Vậy K có phạm tội không?
K đã thực hiện hành vi đe dọa ngay tức khắc với vũ lực, trong trường hợp này là việc sử dụng dao đâm vào cổ T. Hành động này có mục đích buộc T phải sợ hãi và tin tưởng rằng nếu không đưa tiền cho K, tính mạng của T sẽ bị đe dọa và nguy hiểm.
Theo quy định của Bộ luật hình sự, hành vi cướp tài sản được mô tả trong Điều 133, và việc sử dụng vũ lực ngay tức khắc là một trong những yếu tố khách quan của tội này, được chỉ định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015.
Đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc được hiểu là việc tác động ngay lập tức bằng sức mạnh vật chất, có thể bao gồm sử dụng vũ khí hoặc không, để tấn công vào cơ thể của người bị đe dọa. Trong trường hợp này, việc sử dụng dao đâm vào cổ của T là một biểu hiện rõ ràng của hành vi đe dọa này.
Khái niệm “ngay tức khắc” thể hiện tính chấp nhận ngay lập tức và không chần chừ của hành vi đe dọa. Điều này có thể kết hợp với thái độ, cử chỉ và lời nói hung bạo để tạo ra cảm giác sợ hãi và tin tưởng rằng vũ lực sẽ được sử dụng nếu tài sản không được giao lại.
Trong trường hợp này, K đã vi phạm quy định pháp luật về tội cướp tài sản và hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc, điều này dẫn đến việc bị tố cáo và bắt giữ bởi cơ quan chức năng để chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Bài 3: H, một thợ điện chuyên nghiệp, đang tiến hành công việc dựng xe máy loại LEAD, có giá trị lên đến 35 triệu đồng, ở ria đường để chuẩn bị trèo lên cột điện để thực hiện công việc sửa chữa điện. Tuy nhiên, trong sự vội vã, H quên không rút chìa khóa của chiếc xe.
C, một người đi qua, phát hiện chiếc xe LEAD độc đáo và giá trị. Thấy cơ hội, C tiến đến gần và gạt chân chống của xe lên, sau đó nổ máy và phóng đi nhanh chóng. H, đang ở trên cột điện, chỉ còn có thể nhìn thấy tình huống trớ trêu mà mình vô tình tạo ra.
Dù H nhìn thấy C lấy đi chiếc xe của mình, nhưng không có cách nào để can thiệp hay ngăn chặn. H đã phải chứng kiến chiếc xe máy của mình biến mất trong tầm mắt mà không thể làm gì hơn.
Vậy C có phạm tội không? Nếu có thì phạm tội gì?
Trả lời:
C đã thực hiện hành vi công khai, ngang nhiên chiếm đoạt tài sản, đặc biệt là việc lấy chiếc xe máy của H có giá trị lên đến 35 triệu đồng. Trong tình huống này, C không chỉ thực hiện hành vi lấy xe một cách trắng trợn mà còn làm điều này một cách công khai và ngay tại chỗ.
H, chủ sở hữu của chiếc xe, đã nhận thức rõ ràng về hành vi của C nhưng không có khả năng ngăn chặn hoặc giữ lại tài sản của mình. H đã trở thành nhân chứng vô tri trong sự kiện này, đau đớn nhìn thấy chiếc xe máy của mình bị chiếm đoạt mà không thể làm gì để ngăn chặn.
Hành vi chiếm đoạt tài sản của C thuộc vào loại tội phạm công nhiên chiếm đoạt tài sản, theo quy định tại Điều 172 Bộ luật hình sự năm 2015. Tội này chỉ đặc biệt một hành vi khách quan – đó là “chiếm đoạt,” nhưng được thực hiện bằng cách công khai, ngang nhiên. Người phạm tội thực hiện hành vi này trước mắt chủ sở hữu tài sản mà không có biện pháp nào có hiệu quả để ngăn chặn.
Tính chất công khai và trắng trợn của hành vi này là rõ ràng ở chỗ C không giấu diếm hành vi phạm tội của mình. Ngay trước, trong, hoặc ngay sau khi chiếm đoạt tài sản, chủ sở hữu tài sản đã biết ngay C là người lấy đi chiếc xe máy mà không thể giữ được. C đánh dấu một sự táo bạo và không sợ hãi trong việc thực hiện tội phạm của mình.
Câu hỏi thường gặp
Bộ luật Hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Bộ luật này quy định về tội phạm và hình phạt.
1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
2. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.