Bạn đang tìm kiếm tài liệu chất lượng về pháp luật ngân sách nhà nước? Bài giảng môn học Luật Tài chính chương I sẽ cung cấp những kiến thức cơ bản và quan trọng nhất về những vấn đề chung của pháp luật ngân sách nhà nước. Nội dung bài giảng giúp bạn hiểu rõ vai trò, nguyên tắc, và các quy định pháp lý liên quan đến ngân sách nhà nước, tạo nền tảng vững chắc cho việc học tập và nghiên cứu trong lĩnh vực luật tài chính. Đây là tài liệu hữu ích dành cho sinh viên và những ai đang tìm hiểu về pháp luật tài chính công.
Bài giảng môn học Luật Tài chính chương I
Chương 1: Những vấn đề chung của Pháp luật về ngân sách nhà nước
Tài chính công là gì ?
– Tài chính công là tài chính của NN, có 3 chức năng:
+ thành lập và quản lý tiền tệ: NN thành lập và quản lý các quỹ tiền tệ của NN, ví dụ quỹ ngân sách NN, …
+ quyết định chi tiêu: NN sẽ quyết định việc chi tiêu của các quỹ tiền tệ NN như thế nào, VD quyết định đầu tư cơ sở hạ tầng (đường, cầu, …), xây dựng trường học, …
+ giám sát: NN thực hiện giám sát việc chi tiêu ngân sách NN
– Những đặc trưng của tài chính công:
+ chủ thể thực hiện: là các cơ quan NN và các đơn vị sử dụng ngân sách NN
+ phi lợi nhuận: mục đích chi tiêu của ngân sách NN không vì lợi nhuận, tức là NN cần tối thiểu hóa các khoản chi của mình, để từ đó tối thiểu hóa các khoản thu
+ vừa đủ: thu ít – chi ít ; thu nhiều – chi nhiều
+ phân phối lại thu nhập: NN lấy nguồn thu từ những nơi giàu có để tài trợ cho những nơi yếu kém, VD lấy nguồn thu từ thành phố Hồ Chí Minh để tài trợ cho các tỉnh nghèo như Gia Lai, Kon Tum, …
+ minh bạch, công khai: vì công dân và NN không bình đẳng về tư cách, do đó công dân đòi hỏi NN phải công khai, minh bạch trong việc thu chi ngân sách
Tài chính công và tài chính tư
– Giữa tài chính công và tài chính tư có sự đan xen với nhau.
– Tài chính công có khuynh hướng mở rộng, nguyên nhân vì:
+ sự mở rộng của các định chế tự quản phi NN: đó là các tổ chức xã hội dân sự, các hiệp hội, các quỹ, … Các định chế này không phải của NN nhưng chúng liên quan đến rất nhiều người nên phải có sự can thiệp, hỗ trợ bằng PL để đảm bảo chúng hoạt động minh bạch
+ mô hình hợp tác giữa NN và các định chế tư nhân (hợp tác công – tư): VD các dự án BOT về xây dựng cơ sở hạ tầng (cầu, đường, …). Trong mô hình này do tư nhân bỏ vốn nên tư nhân đều muốn thu hồi vốn nhanh và có lãi càng nhiều càng tốt ==> NN cần điều tiết để đảm bảo hài hòa lợi ích doanh nghiệp và lợi ích của người dân, đảm bảo mức phí phải dựa trên khả năng nộp của người sử dụng
+ các chủ thể công nhưng hoạt động tài chính tư: ví dụ bệnh viện, trường học do NN đầu tư nhưng được tự chủ về tài chính, có thể kêu gọi đầu tư để cùng kiếm lợi nhuận ==> dẫn đến hiện tượng tư lợi từ tài chính công
Khái niệm hàng hóa công
– Hàng hóa công là hàng hóa, dịch vụ công ích mà NN (và 1 số chủ thể được NN cho phép) cung cấp cho XH
– Những hàng hóa công cơ bản:
+ quốc phòng và an ninh
+ môi trường
+ giao thông và các tiện ích công cộng khác
– Những đặc trưng của hàng hóa công:
+ không loại trừ người hưởng lợi miễn phí: ví dụ là không phải ai cũng nộp thuế nhưng cũng đều được hưởng sự đảm bảo về an ninh, cùng được đi trên những con đường
+ gia tăng chi phí không đáng kể khi có thêm người hưởng lợi: ví dụ làm 1 con đường, có thêm nhiều người đi thì cũng không phát sinh thêm chi phí đáng kể nào
Thảo luận
– Tại sao nhiều hàng hóa công hiện nay lại chuyển sang cho tư nhân cung cấp ?
+ dịch vụ y tế, giáo dục
+ hoạt động công chứng
+ vệ sinh môi trường
+ nhà tù
Trả lời: vì những hàng hóa này vừa có tính chất của hàng hóa công, vừa có tính chất của hàng hóa tư, khi tư nhân đạt đến trình độ và khả năng nhất định thì NN chuyển dần những hàng hóa công sang cho tư nhân thực hiện, vừa để tối ưu hóa các nguồn lực xã hội, vừa để giảm bớt gánh nặng của bộ máy NN.
– Liệu có hàng hóa công nào không thể chuyển giao ? Vì sao ?
+ an ninh quốc phòng: có thể sản xuất vũ khi giao cho tư nhân, nhưng việc tổ chức quốc phòng an ninh thì không thể giao cho tư nhân
+ môi trường (trên quy mô lớn)
+ chống nghèo đói (trên quy mô quốc gia)
Trả lời: vì mục tiêu của tư nhân là lợi nhuận, khác với mục tiêu của NN
Sự phát triển của tài chính công
– Tài chính công thời phong kiến:
+ thiếu kế hoạch
+ thiếu kiểm soát
+ không rõ ràng giữa nhu cầu công và tư
– Tài chính công của mô hình Xô-viết (kế hoạch hóa tập trung):
+ quốc hội quyết định và giám sát chi tiêu
+ NN đảm nhận hầu hết các khoản thu và chi trong XH
+ việc phân phối nguồn lực công tuân theo 1 kế hoạch thống nhất và cứng nhắc
– Tài chính công hiện đại:
+ quốc hội quyết định ngân sách TW và giám sát hoạt động tài chính công
+ phân quyền cho chính quyền địa phương quyết định tài chính công phù hợp với chức năng
+ NN không quyết định mọi nguồn lực mà chỉ đảm trách những nhiệm vụ thiết yếu và đảm bảo XH công bằng
+ đảm bảo công khai, minh bạch
Ngân sách nhà nước
– Khái niệm (khoản 14 Điều 4 Luật NSNN 2015): là toàn bộ các khoản thu, chi của NN được dự toán và thực hiện trong 1 khoảng thời gian nhất định (thường là 1 năm) do cơ quan NN có thẩm quyền quyết định để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của NN
– Đặc điểm của ngân sách NN:
+ là kế hoạch tài chính “khổng lồ” của NN
+ do Quốc hội và HĐND quyết định theo thẩm quyền: chỉ được thực hiện sau khi đã được cơ quan quyền lực NN thông qua
+ hiệu lực trong 1 năm (ở VN là từ 1/1 đến 31/12)
+ được giao cho Chính phủ và UBND tổ chức thực hiện dưới sự giám sát trực tiếp của Quốc hội và HĐND
+ hoàn toàn vì mục tiêu mưu cầu lợi ích chung cho toàn thể quốc gia
+ phản ánh mối quan hệ giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp
– Bản chất của ngân sách NN:
+ bản chất pháp lý: ngân sách NN được xem như một “đạo luật đặc biệt”, gọi là đạo luật ngân sách thường niên, gồm:
- Trình tự, thủ tục: đặc biệt (khác với trình tự, thủ tục xây dựng các đạo luật thông thường), tất cả các chủ thể sử dụng ngân sách đều phải lập kế hoạch ngân sách hàng năm (vào tháng 6 của năm trước)
- Kết cấu văn bản: chủ yếu là các số liệu (khác với các đạo luật khác gồm có Chương, Mục, Điều, Khoản, Điểm)
- Thời hạn có hiệu lực: là 1 năm (khác với các đạo luật thông thường thì thời gian có hiệu lực là vô hạn)
+ bản chất kinh tế: ngân sách NN là kế hoạch tài chính của 1 quốc gia:
- Dự trù các khoản chi cần thiết
- Dự trù các khoản thu để trang trải các khoản chi
– Cơ cấu các khoản thu của ngân sách NN:
+ các khoản thu có tính chất hoa lợi: là các khoản thu làm tăng ngân quỹ nhưng không làm tăng trái vụ của quốc gia
- Thuế
- Thu từ hoạt động kinh tế của NN
- Đóng góp tự nguyện của tổ chức, cá nhân
- Viện trợ không hoàn lại của nước ngoài cho chính phủ
- Tiền phạt vi phạm PL
+ các khoản thu không có tính chất hoa lợi: là các khoản thu làm tăng ngân quỹ đồng thời làm tăng trái vụ của quốc gia (tức là thu được bao nhiêu thì cũng phải chi ra bấy nhiêu để thực hiện các trái vụ với các chủ thể khác)
- Phí và lệ phí
- Vay nợ, viện trợ có hoàn lại
- Thu tiền bồi thường thiệt hại cho NN
– Cơ cấu các khoản chi của ngân sách NN:
+ các khoản chi có tính chất phí tổn: là các khoản chi làm giảm ngân quỹ nhưng không làm giảm trái vụ của quốc gia
- Viện trợ không hoàn lại cho nước ngoài
- Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội
- Bù lỗ cho các doanh nghiệp NN
- Hỗ trợ cho các doanh nghiệp và tổ chức xã hội
+ các khoản chi không có tính chất phí tổn: là các khoản thu làm giảm ngân quỹ đồng thời làm giảm trái vụ của quốc gia
- Chi hoạt động của bộ máy NN
- Chi quốc phòng, an ninh
- Chi văn hóa, xã hội
- Chi đầu tư phát triển
- Chi cấp vốn cho doanh nghiệp NN
- Chi sự nghiệp kinh tế
- Trả nợ của NN đối với tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài
– Khi thông qua 1 bản ngân sách tức là phải thông qua các khoản dự toán chi và thông qua các khoản dự toán thu. Ở VN việc thông qua 2 khoản thu và chi được tiến hành cùng lúc. (ở nhiều nước có quy định khác, như ở Pháp thì phải thông qua dự toán chi trước, sau đó mới thông qua dự toán thu).
Chú ý: ở các nước phát triển, hàng năm đều có Báo cáo tài chính của Chính phủ, còn ở VN mới chỉ có Báo cáo ngân sách của Chính phủ (tức là mới chỉ có báo cáo thu – chi hàng năm), đến luật Ngân sách NN 2015 mới bắt đầu có những quy định đầu tiên về Báo cáo tài chính Chính phủ. Báo cáo ngân sách chỉ là 1 phần trong Báo cáo tài chính, trong Báo cáo tài chính cần thể hiện những tài sản Chính phủ đang nắm giữ, giá trị của chúng, thặng dư Chính phủ trong năm, …
– Các nguyên tắc của ngân sách NN:
+ nhất niên
+ đơn nhất
+ toàn diện
+ thăng bằng
+ công khai
a. Nguyên tắc ngân sách nhất niên (Điều 14 Luật NSNN 2015)
– Nội dung:
+ mỗi năm, quốc hội sẽ biểu quyết ngân sách 1 lần
+ bản dự toán ngân sách được thực hiện trong 1 năm
– Ý nghĩa:
+ đảm bảo sự kiểm soát của Quốc hội (nếu lâu quá sẽ khó kiểm soát, nếu có sai lầm thì cũng nhanh chóng được điều chỉnh)
+ phù hợp với thực tế
– Hạn chế:
+ sự ảnh hưởng của tính ngắn hạn: như có thể ảnh hưởng đến những kế hoạch chi tiêu công dài hạn (những kế hoạch ngắn hạn thưởng ảnh hưởng đến kế hoạch dài hạn)
+ chi phí soạn lập thường khá lớn
– Biệt lệ:
+ các khoản điều chỉnh sau 31/12: luật cho phép những khoản chi sau ngày 31/12 nhưng trước ngày 31/1 thì được ghi là chi vào ngày 31/12 (vì ngày 31/1 được coi là ngày “chốt sổ ngân sách”)
+ chưa thông qua ngân sách sau ngày 31/12: thì vẫn có thể chi trước những khoản nhất định để đảm bảo hoạt động bình thường của cơ quan, đơn vị trong khi chờ ngân sách được phê duyệt.
b. Nguyên tắc ngân sách đơn nhất
– Nội dung: mọi khoản thu và chi của quốc gia trong 1 năm được trình bày trong 1 văn kiện duy nhất là dự toán ngân sách được Chính phủ trình Quốc hội phê duyệt
– Ý nghĩa:
+ cung cấp cái nhìn toàn diện về tài chính quốc gia
+ thuận lợi cho việc thiết lập ngân sách thăng bằng và hiệu quả
+ Quốc hội dễ kiểm soát, dễ lựa chọn để phê chuẩn
– Hạn chế:
+ trong tình hình thế giới biến động nhanh chóng như hiện tại, thì 1 năm cũng là khá dài để có thể dự đoán
+ khả năng gây ra sự cứn nhắc, khó phản ứng kịp thời với tình hình mới
– Tuy nhiên, ở VN hiện không tuân theo nguyên tắc này, mà áp dụng “linh hoạt”:
+ các nguồn thu và nhiệm vụ chi được xây dựng ở nhiều tài liệu khác nhau
+ kế hoạch ngân sách thường xuyên được bổ sung, sửa đổi trong quá trình thực hiện
+ luật cho phép Quốc hội và HĐND được quyền quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách khi cần
– Biệt lệ:
+ nhiều quốc gia áp dụng phân chia “ngân sách thường” và “ngân sách khẩn cấp”
c. Nguyên tắc ngân sách toàn diện (Điều 8 Luật NSNN 2015)
– Nội dung:
+ mọi khoản thu, chi đều phải thể hiện trong ngân sách: không được phép để ngoài dự toán bất kỳ khoản thu, chi nào (dù là nhỏ nhất)
+ các khoản thu và các khoản chi không được bù trừ cho nhau: tức là không được phép dùng riêng 1 khoản thu cho 1 khoản chi cụ thể (hay nói cách khác mọi khoản thu đều được dùng để tài trợ cho mọi khoản chi)
– Ý nghĩa:
+ đảm bảo tính minh bạch, dễ kiểm soát
+ mở rộng chức năng XH của NN: nguồn thu từ 1 lĩnh vực không chỉ để tái đầu tư cho lĩnh vực đó mà còn được dùng để chi cho những lĩnh vực khó phát sinh lợi nhuận như xóa đói, giảm nghèo, chính sách dân tộc, mình đẳng giới, phát triển nông nghiệp nông thôn, … (khoản Điều 8 Luật NSNN 2015)
– Hạn chế:
+ liệu NN có làm tốt mọi việc ? (như mô hình nhà nước Xô-viết trước đây, hoặc mô hình “nhà nước phúc lợi”, tức là NN muốn tài trợ mọi thứ cho công dân, sẽ dẫn tới công dân có xu hướng ỉ nại mọi thứ vào NN, lợi dụng NN để tư lợi, không chịu lao động ==> nguồn thu của NN không đủ ==> NN phải đi vay để tiếp tục tài trợ phúc lợi ==> vỡ nợ (điển hình là Hy Lạp, Venezuala)
+ liệu có phát hiện được các khoản “vẽ vời” ? Vì yêu cầu phải dự toán trước mới được chi nên các cơ quan của NN thường có xu hướng “vẽ vời” ra rất nhiều khoản chi, nhiều khi không thực sự cần thiết; hoặc trường hợp đã dự toán, nhưng do tình hình thay đổi nên lẽ ra không cần chi nữa, nhưng do tâm lý “sợ không hoàn thành kế hoạch” nên tìm mọi cách để chi ==> lãng phí
– Biệt lệ:
+ tổ chức công phi lợi nhuận do NN thành lập
d. Nguyên tắc ngân sách thăng bằng (Điều 7)
– Nội dung:
+ nguyên tắc chung là tổng chi được xác định cân đối với tổng thu
+ thặng dư ngân sách: [tổng các khoản thu có tính chất hoa lợi] > [tổng các khoản chi có tính chất phí tổn]
+ bội chi ngân sách: [tổng các khoản thu có tính chất hoa lợi] < [tổng các khoản chi có tính chất phí tổn]
+ bội chi phải nhỏ hơn tổng số chi cho đầu tư phát triển
– Ý nghĩa:
+ NN không “mất khả năng thanh toán”
+ các khoản thu phải có “lý do chính đáng”: để tránh lạm thu
– Hạn chế:
+ thăng bằng không phải lúc nào cũng tốt, kinh tế học đã chứng minh nhiều trường hợp phải chi tiêu để kích thích tăng trưởng, qua đó mới có khoản thu
– Biệt lệ:
+ vay để bù đắp bội chi ngân sách: luật Ngân sách 2015 cho phép địa phương cũng được quyền vay để bù đắp bội chi ngân sách
e. Nguyên tắc ngân sách công khai
– Nội dung: ngân sách phải được công khai đến nhân dân
– Ý nghĩa:
+ mục đích của ngân sách: vì nhân dân
+ giám sát tối cao của nhân dân
– Hạn chế:
+ có nên công khai ngân sách quốc phòng ?
– Biệt lệ:
+ các khoản chi “đặc biệt”: như an ninh, quốc phòng, ngoại giao, …
+ các khoản chi hỗ trợ cho các tổ chức chính trị, chính trị XH
Tham khảo trọn bộ bài giảng các môn học Luật Tài chính: https://study.phapche.edu.vn/khoa-hoc-tim-hieu-mon-luat-tai-chinh?ref=lnpc
Mời bạn xem thêm: