fbpx
ICA - Học viện đào tạo pháp chế doanh nghiệp
Các dạng bài tập tình huống môn luật hình sự 2015

Bạn đang tìm kiếm các dạng bài tập tình huống môn Luật Hình sự 2015 để ôn tập và nâng cao kỹ năng phân tích pháp lý? Bài viết này sẽ tổng hợp các dạng bài tập phổ biến theo Bộ luật Hình sự 2015, kèm hướng dẫn giải chi tiết giúp bạn hiểu rõ cách áp dụng pháp luật vào thực tiễn. Đây là tài liệu hữu ích dành cho sinh viên luật, giảng viên và những ai quan tâm đến pháp luật hình sự. Cùng khám phá ngay để nắm vững kiến thức và rèn luyện tư duy pháp lý!

Tham khảo trọn bộ bài giảng môn học Luật Hình sự: https://study.phapche.edu.vn/khoa-hoc-tim-hieu-mon-luat-hinh-su-1?ref=lnpc

Các dạng bài tập tình huống môn luật hình sự 2015

Tình huống 1: B thấy chị H đeo hai nhẫn vàng ở ngón tay nên T dùng gậy đánh vào sau gáy của chị H làm chị H ngất, sau đó B lấy hai chiếc nhẫn vàng của chị H. Vậy B phạm tội gì?

Trả lời:

B đã có hành vi dùng vũ lực (dùng gậy đánh vào đầu chị H) để nhằm chiếm đoạt tài sản (lấy hai chiếc nhẫn vàng của chị H) và thực tế là B đã lấy hai chiếc nhẫn vàng của chị H, do đó B đã phạm tội cướp tài sản được quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015.

Theo quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015 thì một trong các hành vi khách quan của tội cướp tài sản là hành vi dùng vũ lực. Hành vi dùng vũ lực được hiểu là hành vi hành động dùng sức mạnh vật chất (có thể có vũ khí hoặc không có vũ khí) để tác động, tấn công vào cơ thể của người bị tấn công như: dùng chân tay đấm, đánh, bóp cổ, dùng dây trói, dùng súng bắn, dùng gậy đánh, đập, dùng dao đâm, chém… Hành động tấn công này có thể làm cho người bị tấn công bị thương tích, bị tổn hại đến sức khoẻ hoặc bị chết nhưng cũng có thể chưa gây ra thương tích đáng kể cho nạn nhân. Việc dùng vũ lực là nhằm mục đích là làm cho người bị tấn công mất khả năng chống cự nhằm để cướp tài sản. Việc dùng vũ lực được thực hiện ở cả hai phương thức đó là phương thức bí mật (như: bắn lén lút, đánh vào sau gáy…) và phương thức công khai (tấn công trước mặt người bị tấn công để cho người đó biết, bất luận có người nào khác biết hay không).

Tình huống 2: T vừa lĩnh 50 triệu đồng tiền gửi ngân hàng đi ra đến đường quốc lộ thì K dùng dao dí vào cổ T và yêu cầu T đưa tiền, nếu không đưa thì K sẽ đâm. Ngay lúc đó quần chúng nhân dân chạy tới bắt giữ K. Vậy K có phạm tội không?

Trả lời:

K đã có hành vi đe doạ dùng ngay tức khắc vũ lực (dùng dao dí vào cổ T) để buộc T là người bị tấn công phải sợ và tin tưởng nếu không đưa tiền cho K thì tính mạng của T sẽ bị nguy hại (bị đâm dao vào người), do đó K đã phạm tội cướp tài sản được quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự. Bởi theo quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015 thì một trong các hành vi khách quan của tội cướp tài sản là hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc.

Đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc được hiểu là đe doạ dùng ngay tức thì sức mạnh vật chất (có thể có vũ khí hoặc không có vũ khí) để tác động, tấn công vào cơ thể của người bị tấn công như: dùng chân tay đấm, đánh, bóp cổ, dùng dây trói, dùng súng bắn, dùng gậy đánh, đập, dùng dao đâm, chém… nếu người bị tấn công không chịu khuất phục để buộc người bị tấn công phải sợ và tin tưởng rằng nếu không để cho lấy tài sản thì tính mạng và sức khoẻ sẽ bị nguy hại. Ở đây thông thường được kết hợp giữa hành vi sẽ dùng vũ lực với những thái độ, cử chỉ, lời nói hung bạo, để tạo cảm giác cho người bị tấn công sợ và tin tưởng rằng người phạm tội sẽ dùng vũ lực.

Ngay tức khắc là ngay lập tức, không chần chừ, khả năng xảy ra là tất yếu nếu người bị tấn công không giao tài sản cho người phạm tội. Đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc, cũng có nghĩa là nếu người bị hại không giao tài sản hoặc không để cho người phạm tội lấy tài sản thì vũ lực sẽ được thực hiện.

Tình huống số 3: T lập kế hoạch và bàn bạc với M và P cướp tiền của những người mới lĩnh tiền từ Ngân hàng Đ. T phân công cho M dùng dao đe doạ người bị tấn công, còn M lao vào cướp tiền rồi lên xe máy do T đang đứng đợi sẵn. Vậy T, M và P phạm tội gì và theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015 thì cướp tài sản có tổ chức được hiểu là hai hay nhiều người cố ý cùng thực hiện tội cố ý cướp tài sản mà giữa họ có sự cấu kết chặt chẽ để thực hiện tội phạm (có sự bàn bạc, chuẩn bị chu đáo, vạch trương trình kế hoạch phạm tội, phân công vai trò, vị trí của từng người), trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Tuy nhiên không phải vụ án cướp tài sản có tổ chức nào cũng đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi giục hoặc người giúp sức nhưng nhất định phải có người thực hành và người tổ chức thì mới phạm tội có tổ chức.

Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Người tổ chức có thể có những hành vi như: khởi sướng việc phạm tội; vạch kế hoạch thực hiện tội phạm cũng như kế hoạch che giấu tội phạm; phân công trách nhiệm cho những người đồng phạm khác để thống nhất thực hiện tội phạm; điều khiển hành động của những người đồng phạm; đôn đốc, thúc đẩy người đồng phạm khác thực hiện tội phạm…

Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm như: trực tiếp cầm dao chém người bị tấn công, trực tiếp cầm súng đe doạ người bị tấn công hay trực tiếp chiếm đoạt tài sản của người bị tấn công…

Như vậy, trong vụ án cướp tài sản trên thì có ba người đó là T, M và P cùng cố ý thực hiện tội cướp tài sản, trong đó T là người tổ chức vì là người vạch kế hoạch, chủ động bàn bạc với M và P thực hiện hành vi cướp tài sản và phân công trách nhiệm cho M và P, còn M và P là những người thực hành vì có hành vi trực tiếp dùng dao đe doạ và cướp tài sản của người bị tấn công. Do đó T, M và P đã phạm tội cướp tài sản với tình tiết có tổ chức được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tình huống 4: H là thợ điện dựng xe máy loại xe LEAD có giá trị 35 triệu đồng ở ria đường để trèo lên cột điện sửa chữa điện nhưng quên không rút chìa khoá. C đi qua thấy vậy liền tiến đến xe máy của H, gạt chân chống xe lên rồi nổ xe phóng đi. H ở trên cột điện nhìn thấy C lấy xe máy của mình nhưng không làm gì được. Vậy C có phạm tội không? Nếu có thì đó là tội gì?

Trả lời:

C có hành vi công khai, ngang nhiên, trắng trợn chiếm đoạt tài sản (lấy xe máy của H có giá trị 35 triệu đồng), H là chủ xe máy biết là C lấy xe máy của mình mà không thể giữ được. Hành vi đó của C là hành vi công nhiêm chiếm đoạt tài sản. Do đó C đã phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 172 Bộ luật hình sự năm 2015.

Theo quy định tại Điều 172 Bộ luật hình sự năm 2015 thì tội công nhiên chiếm đoạt tài sản chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt” nhưng chiếm đoạt bằng hình thức công khai, ngang nhiên. Người phạm tội lấy tài sản ngay trước mắt chủ sở hữu tài sản mà người này không làm gì được (không có biện pháp nào ngăn cản được hành vi chiếm đoạt tài sản của người phạm tội hoặc nếu có thì biện pháp đó cũng không đem lại hiệu quả, tài sản vẫn bị người phạm tội lấy đi một cách công khai).

Tính chất công khai, trắng trợn của hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản thể hiện ở chỗ người phạm tội không giấu diếm hành vi phạm tội của mình, trước, trong hoặc ngay sau khi chiếm đoạt tài sản, chủ sở hữu tài sản biết ngay người lấy tài sản của mình nhưng không thể giữ được.

Tình huống 5: T và K đang cắt lúa ở cánh đồng thì đột nhiên K bị cảm, thấy vậy T liền bế K lên đường thì nhìn thấy xe máy của G đang để ở ria đường, xe không khoá. T đặt K ngồi lên xe máy đó và nổ máy với mục đích để đưa K vào bệnh viện cấp cứu. G đang tắm ở dưới ao nhìn thấy T lấy xe của mình nhưng cũng không làm gì được. Vậy T có phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 172 Bộ luật hình sự năm 2015 thì tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý. Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản.

Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Người phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không thể có mục đích chiếm đoạt tài sản trong hoặc sau khi thực hiện hành vi phạm tội, vì hành vi chiếm đoạt tài sản đã bao hàm mục đích của người phạm tội.

Vì vậy, có thể nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.

Như vậy, T lấy công khai lấy xe máy của G nhưng không có mục đích chiếm đoạt mà chỉ có mục đích đưa K đi bệnh viện cấp cứu vì K bị cảm, do đó T không phạm tội công nhiêm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 172 Bộ luật hình sự.

Các dạng bài tập tình huống môn luật hình sự 2015
Các dạng bài tập tình huống môn luật hình sự 2015

Tình huống 6: H đang đi xe máy loại xe Jupiter vừa mới mua với giá 24 triệu đồng thì K là người quen của H vẫy tay xin đi nhờ. H dừng xe lại và đèo K đi cùng. Khi đi được một lúc thì H dừng xe trước quán nước và bảo K cùng vào quán uống nước. Lợi dụng lúc H đi rửa tay thấy xe vẫn đang mở khoá, K liền nổ máy phóng xe máy của H đi đến chợ T bán xe lấy tiền tiêu sài. Khi H rửa tay quay ra và hỏi Đ là chủ quán về xe của mình thì Đ vẫn tưởng xe đó là xe của K. Vậy K phạm tội gì?

Trả lời:

Lợi dụng lúc H đi rửa tay, K đã lén lút (bí mật) lấy xe máy của H và mặc dù K lấy xe máy của H ngang nhiên trước mặt Đ là chủ quán nước nhưng đó chỉ là ý thức che giấu tính hợp pháp cho hành vi của K để cho Đ tưởng đó là xe máy của K. Do đó hành vi của K chính là hành vi trộm cắp tài sản nên K đã phạm tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Theo quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 thì mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản thể hiện ở hành vi lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản mà người này không hề hay biết tài sản của mình đang bị chiếm đoạt, chỉ sau khi mất thì thì người đó mới biết bị mất tài sản.

Tính chất lén lút, bí mật của hành vi trộm cắp tài sản thể hiện ở chỗ người phạm tội che giấu, giấu diếm hành vi chiếm đoạt tài sản của mình đối với chủ sở hữu tài sản.

Người phạm tội không những chỉ có ý thức bí mật đối với người quản lý tài sản mà còn bí mật đối với người xung quanh khu vực có tài sản nhưng có những trường hợp người phạm tội không hề che giấu hành vi trộm cắp tài sản đối với người xung quanh nhưng lại có những hành động để người xung quanh tưởng lầm đó không phải là hành vi trộm cắp tài sản. Ví dụ như: giả vờ đi nhờ xe để người xung quanh tưởng nhầm là xe của người đó và đợi cho đến khi chủ sở hữu của xe đó sơ hở, mất cảnh giác thì trộm cắp xe.

Hậu quả của tội trộm cắp tài sản là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Tài sản bị chiếm đoạt phải có giá trị từ 500.000 đồng trở lên mới cấu thành tội trộm cắp tài sản, nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị dưới 500.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng hoặc người có hành vi trộm cắp đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm mới cấu thành tội trộm cắp tài sản.

Tội phạm được hoàn thành khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản. Để xác định tội phạm đã hoàn thành hay chưa phải dựa vào đặc điểm, vị trí tài sản bị chiếm đoạt trong từng trường hợp cụ thể.

– Nếu tài sản bị chiếm đoạt nhỏ, gọn thì tội trộm cắp hoàn thành kể từ thời điểm người phạm tội đã giấu được tài sản đó trong người.

Trong trường hợp tài sản bị chiếm đoạt to, cồng kềnh thì tội trộm cắp hoàn thành kể từ thời điểm người phạm tội mang tài sản đó ra khỏi nơi quản lý của chủ sở hữu.

Tình huống 7: Sau khi Q lập kế hoạch trộm cắp xe máy của công ty K thì Q rủ rê P, T và V cùng trộm cắp xe máy. Sau khi P, T và V đồng ý Q đã chủ động bàn bạc về kế hoạch trộm cắp. Q có nhiệm vụ chuẩn bị các dụng cụ phá khoá cửa và theo dõi, chỉ huy hoạt động trộm cắp, Q phân công P thực hiện việc phá khoá, phân công T dắt xe máy ra và phân công V đưa xe máy đến nơi cất giấu mà Q đã chuẩn bị sẵn. Q, P, T và V trộm cắp đến lần thứ ba với tổng cộng là 7 chiếc xe máy thì bị phát hiện và bị bắt giữ. Vậy Q, P, T và V phạm tội gì và theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự?

Trả lời:

Q, P, T và V đã phạm tội trộm cắp tài sản với tình tiết định khung tăng nặng “có tổ chức” được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 172 Bộ luật hình sự năm 2015. Bởi vì Q, P, T và V cố ý cùng thực hiện tội trộm cắp tài sản (trộm cắp xe máy) mà giữa họ có sự cấu kết chặt chẽ để thực hiện tội phạm (có sự bàn bạc, chuẩn bị chu đáo, vạch trương trình kế hoạch phạm tội, phân công vai trò, vị trí của từng người), trong đó Q là người tổ chức, P, T và V là những người thực hành.

Q là người tổ chức bởi vì Q là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc trộm cắp xe máy, Q khởi sướng việc phạm tội, vạch kế hoạch thực hiện tội phạm cũng như kế hoạch che giấu tội phạm, phân công trách nhiệm cho những người đồng phạm khác (P, T và V) thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

P, T và V là những người thực hành vì là những người trực tiếp lén lút trộm cắp xe máy, trực tiếp phá khoá cửa, trực tiếp đưa xe máy đến nơi cất giấu.

Tình huống 8:  H là công nhân công ty giầy da Đ lấy trộm một đôi giầy của công ty Đ, rồi buộc từng chiếc giầy vào ống chân của H, sau đó phủ ống quần lên và đi về. Khi ra đến cổng bảo vệ của công ty Đ, thì K phát hiện H giấu đôi giầy trong ống quần, K yêu cầu H vào phòng bảo vệ thì lập tức H bỏ chạy, thấy thế K đuổi theo và túm được tay H để giữ H lại, liền lúc đó H rút dao trong người ra đâm vào tay K để cố giữ bằng được đôi giầy. Vậy H phạm tội gì và theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự?

Trả lời:

Theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 172 Bộ luật hình sự năm 2015 thì tình tiết hành hung để tẩu thoát trong tội trộm cắp tài sản được hiểu là trường hợp sau khi đã trộm được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt hoặc đã bị bắt đã có hành vi dùng vũ lực đối với chủ sở hữu hoặc đối với người đã bắt giữ để người này không dám đuổi bắt hoặc không thể bắt giữ được nhằm để tẩu thoát.

Người phạm tội hành hung đối với người đuổi bắt (có thể là chủ sở hữu tài sản bị trộm cắp hoặc là người khác) nhằm mục đích tẩu thoát. Nhưng nếu người phạm tội sau khi đã trộm cắp được tài sản mà bị đuổi bắt hoặc đã bị chủ sở hữu tài sản bị trộm cắp hay người khác bắt giữ nhưng cố tình giữ bằng được tài sản đã trộm cắp bằng cách hành hung người đuổi bắt hoặc người đang bắt giữ thì ngườiphạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản. Trong trường hợp này, khoa học luật hình sự gọi là chuyển hoá từ tội trộm cắp sang tội cướp tài sản (hay còn gọi là đầu trộm đuôi cướp).

Như vậy, H là người trộm cắp tài sản bị K phát hiện thì đã bỏ chạy, K đuổi theo thì H đã hành hung K (rút dao trong người đâm vào tay K) nhưng H hành hung K không phải để tẩu thoát mà để giữ bằng được tài sản đã trộm cắp (đôi giầy). Do vậy H đã phạm tội cướp tài sản theo quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tình huống 9: Vì muốn có tiền để đánh bạc nên H đã đến nhà B giả vờ hỏi mượn xe máy loại xe Wave trị giá 15 triệu đồng để đi thăm người ốm. Khi B cho H mượn xe thì H đã đi xe máy này đến cửa hàng mua bán xe máy và bán được 5 triệu đồng và H lấy số tiền này để đánh bạc. Vậy H phạm tội gì?

Trả lời :

H có hành vi dùng thủ đoạn gian dối (giả vờ mượn xe máy loại xe LEAD trị giá 35 triệu đồng để đi thăm người ốm) làm cho B là chủ sở hữu chiếc xe máy tưởng là thật nên đã  tự nguyện giao xe máy cho H. Khi H nhận được xe máy của B thì H đã có hành vi chiếm đoạt chiếc xe máy (bán xe máy được 5 triệu đồng để lấy tiền đánh bạc). Hành vi đó của H là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, do đó H đã phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015. Bởi theo quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 thì mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thể hiện ở hành vi duy nhất đó là hành vi chiếm đoạt nhưng chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối. Trong đó thủ đoạn gian dối là điều kiện để thực hiện hành vi chiếm đoạt.

Gian dối là đưa ra thông tin hay hành động không đúng sự  thật nhằm đánh lừa người khác để người khác tin đó là sự thật. Thủ đoạn gian dối được thực hiện rất đa dạng có thể qua lời nói, sử dụng giấy tờ giả, giả danh người có chức vụ, quyền hạn… Hành vi gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm để chiếm đoạt tài sản, còn nếu có hành vi gian dối không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản mà nhằm mục đích khác, dù mục đích này có tính tư lợi cũng không cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải được thể hiện bằng những hành vi cụ thể để nhằm đánh lừa chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản. Luật hình sự Việt Nam không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có thủ đoạn gian dối thuộc về tư tưởng, suy nghĩ mà không biểu hiện ra bên ngoài bằng hành vi.

Thủ đoạn gian dối của người phạm tội bao giờ cũng phải có trước khi có việc giao tài sản giữa người người bị hại với người phạm tội thì mới là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nếu thủ đoạn gian dối lại có sau khi người phạm tội nhận được tài sản thì không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tuỳ từng trường hợp có thể phạm tội khác.

Hành vi chiếm đoạt trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chuyển dịch tài sản của người khác thành tài sản của mình bằng thủ đoạn gian dối.

Hậu quả của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 500.000 đồng trở lên mới cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị dưới 500.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc người có hành vi lừa đảo đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì mới cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Tội phạm hoàn thành khi hành vi chiếm đoạt tài sản đã xảy ra.

Tình huống 10: C có nhu cầu xây dựng nhà ở nên đã hỏi vay của T 50 triệu đồng để xây dựng nhà ở. T đồng ý và đưa cho C vay 50 triệu đồng (việc vay mượn có làm hợp đồng và viết giấy biên nhận). Sau khi nhận tiền của T thì C lại không xây nhà vì C không muốn ở Việt Nam mà muốn sang nước Nga cư trú cùng anh ruột của C. Vì không định trả lại tiền vay cho T nên khi đi C mang theo 50 triệu đồng đã vay của T. Vậy C có phạm tội không?

Trả lời:

C vay được tài sản của người khác (vay được 50 triệu đồng của T) bằng hợp đồng bằng văn bản hợp pháp (việc vay mượn có làm hợp đồng và viết giấy biên nhận) nhưng sau khi vay được tiền thì C đã bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản (bỏ sang nước Nga cư trú cùng anh ruột của C để chiếm đoạt 50 triệu đồng tiền vay của T). Hành vi đó của C chính là hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, do đó C đã phạm tội lạm dụng tính nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015. Bởi theo quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 thì mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bao gồm hành vi sau:

Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng hợp pháp (hình thức của hợp đồng có thể bằng văn bản hoặc bằng miệng) rồi dùng thủ đoạn gian dối (như: giả tạo bị mất tài sản; đánh tráo tài sản; rút bớt tài sản…) hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó. Thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản chỉ xuất hiện sau khi đã nhận được tài sản thông qua hợp đồng hợp pháp. Thủ đoạn gian dối cũng được thể hiện bằng những hành vi cụ thể nhằm đánh lừa chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản như đối với thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Mời bạn xem thêm:

Đánh giá bài viết

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết liên quan

.
.
.