Bạn đang tìm hiểu về chương I trong môn học Luật công chứng, chứng thực và luật sư? Đây là bước khởi đầu quan trọng giúp bạn nắm bắt các nguyên tắc cơ bản, khái niệm pháp lý liên quan đến nghề công chứng, chứng thực và luật sư. Bài giảng không chỉ cung cấp cái nhìn tổng quan mà còn giải đáp thắc mắc về vai trò và trách nhiệm của các chức danh pháp lý này trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tìm hiểu ngay để xây dựng nền tảng vững chắc cho hành trình học tập và hành nghề luật của bạn!
Bài giảng môn học Luật công chứng, chứng thực, luật sư chương I
Chương 1: Những vấn đề chung về công chứng, chứng thực
– Về bản chất, công chứng và chứng thực là giống nhau:
chứng = xác nhận, xác thực (chính xác và có thực)
công = công quyền, quyền lực NN
công chứng = lấy quyền lực của NN để xác nhận
– Tuy nhiên theo quy định của PL VN hiện hành thì công chứng và chứng thực là khác nhau. Ở nhiều nước trên thế giới không phân biệt 2 khái niệm này mà quy về chứng thực (như Hàn Quốc, …)
– PL về công chứng của VN hiện nay chịu ảnh hưởng rất lớn từ PL về công chứng của Pháp
– Sự phát triển của PL công chứng và chứng thực ở VN gắn bó mật thiết với nhau, có những giai đoạn không có sự phân biệt rõ công chứng và chứng thực
I. Quá trình hình thành và phát triển công chứng, chứng thực ở Việt Nam
– Nguồn gốc của công chứng: từ thời Hy Lạp cổ đại thì công chứng đã xuất hiện với hình thức dịch vụ văn tự. Lúc đó mới chỉ có rất ít người biết viết chữ, trong khi nhu cầu về thương mại đã phát triển, đòi hỏi các bên phải tin tưởng nhau ==> vai trò của người làm chứng. Người làm chứng là người có uy tín trong xã hội, dùng uy tín của mình để chứng nhận cho người khác
chưởng khế = công chứng viên
– Công chứng phát triển mạnh ở châu Âu vào thế kỷ 14, 15, 16 (thời kỳ Phục hưng)
– Công chứng phát triển không đồng đều trên thế giới. Chỉ có ở những nước mà PL thực sự được tôn trọng thì công chứng mới phát triển
– Ở VN, công chứng theo chân người Pháp du nhập vào khi xâm lược VN
– Năm 1931, Tổng thống Cộng hòa Pháp ra sắc lệnh về Công chứng có phạm vi áp dụng trong Cộng hòa Pháp. Tuy nhiên sau đó toàn quyền Pháp ở Đông Dương ban hành sắc lệnh cho phép các quốc gia Đồng Dương thực hiện Sắc lệnh của Tổng thống Pháp về công chứng trong phạm vi các quốc gia Đông Dương
– Ở VN, công chứng viên theo quy định của toàn quyền Đông Dương phải là công dân Pháp và do Tổng thống Pháp trực tiếp bổ nhiệm, và được bổ nhiệm công chứng viên suốt đời (tương tự với thẩm phán, luật sư). Có 1 văn phòng công chứng ở Hà Nội, 3 văn phòng công chứng ở Sài Gòn, với các thành phố lớn khác thì việc công chứng (thực chất là chứng thực) sẽ do Chánh lục sự của Tòa sơ thẩm kiêm nhiệm
– Trong thời Ngô Đình Diệm, chưởng khế hoạt động độc lập với chính quyền. Có 1 văn phòng công chứng duy nhất ở Sài Gòn, và hoạt động cho đến 1975
– Ngày 01/10/1945, bộ trưởng bộ Tư pháp của Việt Nam dân chủ cộng hòa, ông Trần Trọng Khánh ban hành quyết định về một số vấn đề liên quan đến hoạt động công chứng, trong đó quy định công chứng viên là người Việt Nam (để thay thế công chứng viên người Pháp). Người VN đầu tiên được bổ nhiệm làm công chứng viên là luật sư Vũ Quỹ Vỹ (chú ý: Vũ Quý Vỹ và Phan Văn Trường là 2 luật sư người VN đầu tiên được Pháp công nhận). Quyết định này vẫn quy định những quy định về công chứng vẫn được duy trì như thời chính quyền thực dân Pháp. Có 1 quy định mới bổ sung là công chứng viên phải chịu trách nhiệm trước ủy ban hành chính các cấp
– Ngày 15/11/1945, ban hành Sắc lệnh 59 về thể lệ thị thực các giấy tờ, trong đó quy định hoạt động chứng nhận vào các giấy tờ của các cơ quan NN (ví dụ chứng nhận vào bản khai lý lịch, chứng nhận bản sao từ bản gốc)
– Năm 1952, ban hành Sắc lệnh 85 về thể lệ chước bạ về việc mua bán, tặng cho nhà đất. Đây là tiền thân cho chế định chứng thực và cả chế định công chứng sau này
Việc chứng nhận trong Sắc lệnh 59 và Sắc lệnh 85 quy định giao cho Ủy ban kháng chiến các cấp thực hiện (thường chỉ là cấp xã và cấp huyện)
– Thông tư 574 của bộ Tư pháp ngày 10/10/1987 về công chứng nhà nước. Theo đó quy định thành lập Phòng công chứng tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, tại các địa phương khác thì vẫn duy trì thẩm quyền chước bạ các loại giấy tờ, hợp đồng mua bán cho UBND cấp xã, huyện
+ đến 1988 Phòng công chứng đầu tiên được thành lập ở Hà Nội
+ đến 1989 Phòng công chứng đầu tiên được thành lập ở thành phố Hồ Chí Minh
– Nghị định 45 năm 1991 của Hội đồng bộ trưởng về tổ chức và hoạt động của công chứng nhà nước
– Nghị định 31 năm 1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công chứng nhà nước
Chú ý: cả 3 văn bản PL này đều có tên là “về công chứng”, nhưng nội dung lại bao gồm cả công chứng và chứng thực, chỉ khác nhau ở nơi thực hiện: công chứng ở Phòng công chứng, chứng thực ở UBND cấp xã, huyện
– Năm 2000, ban hành Nghị định 75 về công chứng và chứng thực. Theo đó, bắt đầu có sự phân biệt công chứng và chứng thực: nếu do Phòng công chứng thực hiện thì gọi là công chứng; nếu do UBND cấp xã thực hiện là chứng thực. Tuy nhiên phạm vi công việc của công chứng và chứng thực chưa được phân biệt rõ
– Năm 2006, ban hành Luật công chứng. Luật này chỉ quy định về công chứng, không quy định về chứng thực. Bước ngoặt lớn của Luật công cứng 2006 là lần đầu tiên công nhận tổ chức hành nghề công chứng tư
– Nghị định 79 năm 2007 về việc sao y, chứng thực chữ ký, cấp bản sao từ sổ gốc. Quy định những việc này được thực hiện ở UBND cấp xã và phòng Tư pháp của UBND cấp huyện
Chú ý: trong Luật công chứng 2006 và Nghị định 79/2007 có quy định: chuyển giao toàn bộ hoạt động công chứng hợp đồng, giao dịch về các tổ chức hành nghề công chứng, còn UBND tập trung vào chứng thực
Tuy nhiên sau nhiều năm thực hiện, chỉ có Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh là phát triển hệ thống văn phòng công chứng (tư) rộng khắp, còn các tỉnh, nhất là các tỉnh khó khăn thì hầu như không thể phát triển được Văn phòng công chứng, do đó chỉ có 1 Phòng công chứng đặt tại trung tâm của tỉnh, như vậy rất khó khăn cho người dân trong việc công chứng khi phải di chuyển rất xa để đến được trung tâm tỉnh.
– Năm 2014, ban hành Luật công chứng 2014
– Nghị định 23/2015 quy định về chứng thực
Chú ý: trong Luật công chứng 2014 và Nghị định 23/2015 có quy định tổ chức hành nghề công chứng cũng được chứng thực, tuy nhiên có sự phân biệt rõ những nội dung công chứng và nội dung chứng thực. Ngoài ra để khắc phục nhược điểm trên, quy định duy trì thẩm quyền chứng thực với các hợp đồng, giao dịch của UBND xã và Phòng tư pháp của UBND huyện. ==> ranh giới công chứng và chứng thực rất nhỏ (VD cùng là hợp đồng giao dịch bất động sản, nếu xác nhận ở Phòng công chứng / Văn phòng công chứng thì được gọi là công chứng, còn nếu xác nhận ở UBND cấp xã hoặc Phòng tư pháp UBND cấp huyện thì được gọi là chứng thực)
II. Khái niệm công chứng
1. Khái niệm (Điều 2 khoản 1 Luật công chứng 2014)
– Công chứng: là việc công chứng viên của 1 tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản, tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc ngược lại mà theo quy định của PL phải công chứng, hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.
2. Đặc điểm
– Chủ thể: Công chứng là hoạt động của công chứng viên: tức là có tính chuyên trách. Ngoại lệ: công chứng còn được thực hiện bởi viên chức ngoại giao, lãnh sự của VN ở nước ngoài
– Nội dung của hoạt động công chứng là chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp, không trái đạo đức xã hội
– Phạm vi công chứng:
+ hợp đồng, giao dịch dân sự bằng văn bản. Chú ý: vấn đề hợp đồng, giao dịch dưới dạng điện tử thì có được công chứng không hiện vẫn bị bỏ ngỏ (mặc dù luật dân sự, luật thương mại điện tử đã công nhận những hình thức này)
+ bản dịch từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt hoặc ngược lại. Chú ý: vấn để ngôn ngữ của dân tộc thiểu số tại VN hiện vẫn chưa được luật quy định, như vậy những văn bản được lập bằng tiếng của dân tộc thiểu số (như di chúc, hợp đồng, …) có thể không được công chứng.
III. Khái niệm chứng thực
1. Khái niệm
– Không có định nghĩa chung về chứng thực trong Nghị định 23/2015
– Chứng thực bản sao từ bản chính là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là đúng với bản chính
– Chứng thực chữ ký là chứng nhận chữ ký đúng là của người đã ký
– Chứng thực hợp đồng, giao dịch dân sự: là việc cơ quan có thẩm quyền chứng thực về thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch
2. Đặc điểm của chứng thực
– Chứng thực là hoạt động của người có thẩm quyền chứng thực: gồm
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp xã. Chú ý: quy định Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND có thẩm quyền tức là Phó Chủ tịch có thể trực tiếp thực hiện chứng thực mà không cần phải có ủy quyền của Chủ tịch (nếu quy định Người đứng đầu UBND như trong các luật khác thì chỉ Chủ tịch UBND mới có thẩm quyền, Phó Chủ tịch phải được ủy quyền thì mới có thẩm quyền)
+ Trưởng phòng, Phó trưởng phòng Tư pháp của UBND cấp huyện
+ Viên chức, Cơ quan đại diện của VN ở nước ngoài
– Nội dung của hoạt động chứng thực: chỉ chứng nhận tính xác thực
Chú ý: về mặt lý thuyết, công chứng đảm bảo cả về thủ tục và nội dung, còn chứng thực chỉ đảm bảo về hình thức
3. Phạm vi của chứng thực
– Chứng thực bản sao từ bản chính
– Chứng thực chữ ký (gồm cả chứng thực chữ ký trong văn bản giấy tờ và chứng thực chữ ký người dịch)
– Chứng thực hợp đồng, giao dịch
Chú ý: như vậy có sự đan xen giữa công chứng và chứng thực:
+ với hợp đồng, giao dịch: có cả công chứng và chứng thực
+ với bản dịch thì có công chứng bản dịch, chứng thực chữ ký người dịch
Lưu ý: công chứng và chứng thực đều được coi là các dịch vụ pháp lý cung cấp bảo đảm pháp lý cho các bên trong giao dịch dân sự hoặc phục vụ nhu cầu của cá nhân, tổ chức khi tham gia vào các quan hệ PL
Cả công chứng và chứng thực đều phải dựa vào quyền lực NN để chứng nhận ==> do đó mới có giá trị pháp lý bắt buộc (văn bản được công chứng sẽ có giá trị pháp lý và chỉ có Tòa án mới có quyền tuyên vô hiệu, văn bản được chứng thực có giá trị chứng minh tính xác thực)
Công chứng và chứng thực hiện nay được phân biệt rõ, chủ yếu dựa vào nội dung và tính chất của việc chứng
IV. Phân biệt công chứng và chứng thực
– Bản sao: theo quy định của PL, chỉ có chứng thực bản sao, không có công chứng bản sao. Tuy nhiên công chứng viên có quyền chứng thực bản sao từ bản chính.
Chú ý nguyên tắc: Nếu 1 người vừa có thẩm quyền công chứng, vừa có thẩm quyền chứng thực thì đối tượng công chứng, chứng thực của những người này không bao giờ phạm vào nhau. Tức là nếu công chứng viên đã có quyền công chứng hợp đồng, giao dịch thì công chứng viên sẽ không có quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch
Có 2 nhóm chủ thể vừa có thẩm quyền công chứng, vừa có thẩm quyền chứng thực là công chứng viên, và viên chức cơ quan đại diện ngoại giao của VN ở nước ngoài
– Hợp đồng, giao dịch: là đối tượng của cả công chứng và chứng thực.
+ về nội dung:
- Với công chứng: công chứng viên và người có thẩm quyền công chứng sẽ chứng nhận về nội dung của hợp đồng, giao dịch (là thỏa thuận, cam kết của các bên trong hợp đồng, giao dịch), chứng nhận về thời gian, địa điểm giao kết, … và đặc biệt công chứng viên sẽ chứng nhận về đối tượng của hợp đồng, giao dịch
- Với chứng thực: chỉ xác nhận về hình thức, tức là chỉ xác nhận việc giao kết hợp đồng, giao dịch là đã xảy ra, chứng nhận về thời gian, địa điểm giao kết, người tham gia giao kết, năng lực hành vi, ý chí của người tham gia giao kết. Người chứng thực sẽ không xem đến nội dung, tức là không xem đến thỏa thuận, cam kết của các bên.
+ về chủ thể:
- Với công chứng: là công chứng viên, viên chức cơ quan đại diện ngoại giao của VN ở nước ngoài
- Với chứng thực: với hợp đồng, giao dịch liên quan đến động sản thì thẩm quyền thuộc về Trưởng/Phó trưởng phòng Tư pháp của UBND cấp huyện; với hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản thì thẩm quyền thuộc về Chủ tịch / Phó Chủ tịch UBND cấp xã
– Bản dịch và chữ ký của người dịch:
+ với công chứng: công chứng cả nội dung của bản dịch và xác nhận cả chữ ký của người dịch. Thẩm quyền công chứng bản dịch là của công chứng viên
+ với chứng thực: chỉ xác nhận chữ ký của người dịch, gồm chữ ký trên văn bản giấy tờ và chữ ký người dịch. Thẩm quyền chứng thực chữ ký người dịch là của Trưởng / Phó phòng Tư pháp thuộc UBND cấp huyện
Chú ý nguyên tắc: nếu văn bản, giấy tờ thuần Việt thì chứng thực tại cấp xã, nếu có tiếng nước ngoài thì chứng thực tại cấp huyện (phòng Tư pháp). Viên chức cơ quan đại diện VN tại nước ngoài có thẩm quyền chứng thực văn bản, giấy tờ cả tiếng Việt và tiếng nước ngoài.
Chú ý: Theo quy luật của PL hiện nay, thì cá nhân, tổ chức có quyền lựa chọn hoặc công chứng, hoặc chứng thực, đều có giá trị như nhau.
Theo quy định của PL công chứng, thì công chứng có 2 trường hợp:
- PL yêu cầu phải công chứng
- Cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng
Tham khảo trọn bộ bài giảng các môn học Luật công chứng, chứng thực, luật sư: https://study.phapche.edu.vn/khoa-hoc-tim-hieu-mon-luat-su-cong-chung-chung-thuc?ref=lnpc
Mời bạn xem thêm: