fbpx
ICA - Học viện đào tạo pháp chế doanh nghiệp
Đối tượng điều chỉnh của công pháp quốc tế

Công pháp quốc tế (hay còn gọi là công pháp quốc tế học) là một lĩnh vực nghiên cứu trong Luật quốc tế, tập trung vào việc nghiên cứu và phân tích các quy định và nguyên tắc pháp lý quốc tế. Công pháp quốc tế đóng vai trò quan trọng trong việc hiểu và giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan đến quan hệ quốc tế, đặc biệt là khi các quốc gia tương tác và hợp tác với nhau. Cùng tìm hiểu về đối tượng điều chỉnh của công pháp quốc tế trong bài viết sau của Học viện đào tạo pháp chế ICA nhé!

Đặc trưng của luật quốc tế

Công pháp quốc tế bao gồm các quy tắc và nguyên tắc pháp lý quốc tế mà các quốc gia áp dụng để điều chỉnh quan hệ giữa chính họ và với các chủ thể quốc tế khác. Quy định về công pháp quốc tế được xây dựng dựa trên sự thỏa thuận của các quốc gia và thể hiện ý chí của họ trong việc xác định các quy tắc pháp lý áp dụng trong quan hệ quốc tế.

Các đặc điểm cơ bản của Luật quốc tế hiện đại được mô tả như sau:

  • Luật quốc tế được xây dựng dựa trên các thỏa thuận phản ánh ý chí của các chủ thể. Qua quá trình thỏa thuận, các quốc gia đã tạo ra các hiệp định quốc tế và thiết lập các quy tắc của Luật quốc tế trong các lĩnh vực cụ thể. Những quy tắc này chỉ có hiệu lực khi được các quốc gia chấp thuận. Bằng cách ký kết, phê chuẩn và thực thi các hiệp định quốc tế, các quốc gia cam kết tuân thủ các quy định pháp luật quốc tế và chịu sự ràng buộc của chúng.
  • Luật quốc tế không có một hệ thống tư pháp như trong pháp luật quốc gia. Theo quy định của Luật quốc tế, Tòa án chỉ có thẩm quyền xét xử khi được sự chấp thuận của các quốc gia thành viên.
  • Luật quốc tế có một hệ thống đa dạng và phong phú về chế tài. Trước đây, nhiều người cho rằng Luật quốc tế không có các biện pháp cưỡng chế do sự khác biệt giữa Luật quốc tế và luật quốc gia. Tuy nhiên, quan điểm này không chính xác. Trên thực tế, Luật quốc tế có các cơ chế đảm bảo tuân thủ và một hệ thống chế tài đa dạng và đặc thù.
  • Về chủ thể, Luật quốc tế có các chủ thể chính như quốc gia, tổ chức quốc tế liên chính phủ và các dân tộc đang đấu tranh cho độc lập. Mỗi chủ thể có vai trò và quyền hạn khác nhau trong Luật quốc tế.
  • Đối tượng điều chỉnh của Luật quốc tế là các quan hệ chính trị hoặc các khía cạnh chính trị của các quan hệ kinh tế, xã hội và văn hóa phát sinh giữa các quốc gia và các thực thể quốc tế khác.
  • Nguồn gốc của Luật quốc tế chủ yếu là các hiệp định quốc tế và tập quán quốc tế, cùng với các nguồn bổ sung như các án lệnh, nghị quyết và học thuyết.
  • Quy trình xây dựng quy phạm trong Luật quốc tế do các chủ thể tự nguyện và bình đẳng thỏa thuận ban hành. Không có cơ quan nào ở trên các chủ thể để quy định các quyền và nghĩa vụ trong các hiệp định quốc tế và tạo cơ sở để thực thi chúng.
  • Luật quốc tế không có một cơ quan nào đứng trên các chủ thể có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Trong từng trường hợp cụ thể, các biện pháp này được thực hiện bởi các chủ thể thông qua đấu tranh hoặc dựa trên ý thức công cộng.
  • Về bản chất, Luật quốc tế hiện đại phản ánh sự thỏa hiệp về lợi ích của cácLuật quốc tế hiện đại có những đặc điểm cơ bản như sau:
  • Luật quốc tế được xây dựng dựa trên sự thỏa thuận của các chủ thể, phản ánh ý chí của họ. Các quốc gia thỏa thuận và thiết lập các hiệp định quốc tế, đặt ra các quy tắc trong các lĩnh vực cụ thể. Những quy tắc này chỉ có hiệu lực khi các quốc gia đồng ý với chúng. Bằng cách ký kết, phê chuẩn và thực thi hiệp định quốc tế, các quốc gia cam kết tuân thủ và chấp hành các quy tắc pháp lý quốc tế.
  • Luật quốc tế không có một hệ thống tư pháp như trong pháp luật quốc gia. Theo quy định của Luật quốc tế, Tòa án chỉ có thẩm quyền xét xử khi được sự chấp thuận của các quốc gia thành viên.
  • Luật quốc tế có một hệ thống chế tài đa dạng và phong phú. Trước đây, nhiều người cho rằng Luật quốc tế không có chế tài. Tuy nhiên, thực tế là Luật quốc tế có cơ chế đảm bảo tuân thủ và hệ thống chế tài đa dạng.
  • Về chủ thể, quốc gia là chủ thể chính trong Luật quốc tế. Các tổ chức quốc tế liên chính phủ cũng là chủ thể nhưng có hạn chế. Ngoài ra, các dân tộc đang đấu tranh cho độc lập cũng có vai trò đặc biệt trong Luật quốc tế.
  • Đối tượng điều chỉnh của Luật quốc tế là các quan hệ chính trị hoặc khía cạnh chính trị của các quan hệ kinh tế, xã hội, văn hóa giữa các quốc gia và các thực thể quốc tế khác.
  • Nguồn của Luật quốc tế chủ yếu là các hiệp định quốc tế và tập quán quốc tế. Ngoài ra, còn có các nguồn bổ sung như án lệnh, nghị quyết và học thuyết.
  • Quy trình xây dựng quy phạm trong Luật quốc tế do các chủ thể thỏa thuận ban hành theo nguyên tắc tự nguyện và bình đẳng. Không có cơ quan nào ở trên các chủ thể để ấn định các quyền và nghĩa vụ trong hiệp định quốc tế.
  • Luật quốc tế không có một cơ quan nào đứng trên các chủ thể có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Trong các trường hợp cụ thể, các biện pháp này được thực hiện thông qua đấu tranh hoặc dựa trên ý thức công cộng.
  • Về bản chất, Luật quốc tế hiện đại thể hiện sự thỏa hiệp về lợi ích của các quốc gia trong quan hệ quốc tế, dựa trên tương quan lực lượng giữa các quốc gia và sự hợp tác cũng như đấu tranh giữa các giai cấp cầm quyền trong mỗi quốc gia.

Đối tượng điều chỉnh của công pháp quốc tế

Luật quốc tế có đối tượng điều chỉnh chính là các quan hệ nhiều mặt phát sinh trong đời sống quốc tế, tuy nhiên chủ yếu tập trung vào các quan hệ chính trị hoặc các khía cạnh chính trị. Đây là các quan hệ giữa các quốc gia và các thực thể quốc tế khác, bao gồm tổ chức quốc tế liên quốc gia và các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập trong các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của đời sống quốc tế.

Quan trọng nhất, quan hệ mà Luật quốc tế điều chỉnh khác với quan hệ được điều chỉnh bởi luật quốc gia. Quan hệ thuộc phạm vi tác động của Luật quốc tế là quan hệ liên quốc gia và liên chính phủ, phát sinh trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế.

Những quan hệ này yêu cầu tuân thủ các quy phạm của Luật quốc tế. Từ đó, có thể nhận thấy rằng quan hệ liên quốc gia và liên chính phủ giữa các quốc gia và các thực thể Luật quốc tế khác phát sinh trong nhiều lĩnh vực cụ thể như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và chúng sẽ được điều chỉnh bằng Luật quốc tế, được gọi là quan hệ pháp luật quốc tế.

Đối tượng điều chỉnh của công pháp quốc tế
Đối tượng điều chỉnh của công pháp quốc tế

Vai trò của Luật quốc tế 

Trong công pháp quốc tế, các quy định cơ bản bao gồm các hiệp định quốc tế, tập quán quốc tế, các quy tắc pháp lý tương thích và các nguyên tắc pháp lý chung. Các hiệp định quốc tế là các thỏa thuận pháp lý giữa các quốc gia, đặt ra các quy tắc cụ thể áp dụng cho các vấn đề quốc tế như hợp đồng, thương mại, biển, môi trường và nhân quyền. Tập quán quốc tế là các quy tắc không được ghi chép nhưng được thực hành và công nhận rộng rãi trong cộng đồng quốc tế.

Luật quốc tế hiện đại đóng vai trò quan trọng trong nhiều khía cạnh như sau:

  • Luật quốc tế đóng vai trò là công cụ pháp lý quan trọng để duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, đồng thời ngăn chặn nguy cơ chiến tranh hạt nhân.
  • Luật quốc tế được sử dụng như một công cụ pháp lý để đảm bảo quyền và lợi ích của mỗi quốc gia trong các quan hệ quốc tế.
  • Luật quốc tế có vai trò là công cụ phối hợp hành động giữa các quốc gia trong việc giải quyết các vấn đề chung toàn cầu.
  • Luật quốc tế ghi nhận các chuẩn mực pháp lý về quyền con người và đóng vai trò như một công cụ bảo vệ quyền con người của cộng đồng quốc tế.
  • Luật quốc tế là công cụ pháp lý để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động quốc tế của các chủ thể theo luật quốc tế.
  • Luật quốc tế được coi là những tiêu chuẩn công lý và công bằng để đánh giá sự phải trái, đúng-sai liên quan đến hành vi của các quốc gia trong các quan hệ quốc tế.

Câu hỏi thường gặp:

Người nào được coi là đại diện quốc gia để thông qua hoặc để xác thực văn bản của một điều ước quốc tế mà không cần xuất trình thư ủy quyền?

Những người được coi là đại diện quốc gia để thông qua hoặc để xác thực văn bản của một điều ước quốc tế mà không cần xuất trình thư ủy quyền gồm:
Các Nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao trong mọi hành vi liên quan đến việc ký kết điều ước;
Các Trưởng đoàn ngoại giao trong việc thông qua văn bản của một điều ước giữa quốc gia cử và quốc gia nhận đại diện;
Những đại diện được cử của một quốc gia tại một hội nghị quốc tế hoặc tại một tổ chức quốc tế hoặc tại một cơ quan của tổ chức này, trong việc thông qua văn bản của một điều ước trong hội nghị quốc tế đó, trong tổ chức quốc tế đó hay trong cơ quan của tổ chức quốc tế đó.
Bên cạnh đó, một người được coi là đại diện cho một quốc gia để thông qua hoặc để xác thực văn bản của một điều ước hay để tỏ sự đồng ý của quốc gia chịu sự ràng buộc của điều ước:
Nếu người đó xuất trình thư ủy quyền thích hợp; hoặc
Nếu chiểu theo thực tiễn của các quốc gia hữu quan hoặc theo những hoàn cảnh khác, những quốc gia này có ý định coi người đó là đại diện của quốc gia mình nhằm đạt được những mục đích nêu trên và không đòi hỏi phải xuất trình thư ủy quyền.

Người không có thẩm quyền đại diện cho một quốc gia thực hiện ký kết một điều ước quốc tế nhưng điều ước quốc tế vẫn có giá trị pháp lý khi nào?

Căn cứ theo Điều 8 Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế năm 1969 quy định như sau:
Việc xác nhận sau đó đối với một hành vi không được ủy quyền
Một hành vi liên quan đến việc ký kết một điều ước của một người mà theo Điều 7 không được coi là có thẩm quyền đại diện cho một quốc gia thì không có giá trị pháp lý, trừ khi được quốc gia họ xác nhận sau đó hành vi ký kết này.
Như vậy, người không có thẩm quyền đại diện cho một quốc gia thực hiện ký kết một điều ước quốc tế nhưng điều ước quốc tế vẫn có giá trị pháp lý khi được quốc gia họ xác nhận sau đó hành vi ký kết này.

5/5 - (1 bình chọn)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Bài viết liên quan

.
.
.
Sơ đồ bài viết