Đề cương ôn thi môn Luật sở hữu trí tuệ là tài liệu hữu ích, tổng hợp các kiến thức quan trọng về quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, và các quyền liên quan khác. Đề cương giúp hệ thống hóa kiến thức môn học, hỗ trợ sinh viên chuẩn bị cho kỳ thi hiệu quả hơn, nắm chắc các quy định pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, quyền đối với giống cây trồng, và quyền tác giả. Tài liệu không chỉ giúp ôn tập dễ dàng mà còn nâng cao khả năng phân tích các tình huống pháp lý trong thực tế.
Đề cương ôn thi môn Luật sở hữu trí tuệ
Tình huống 1: Bài tập môn Luật Sở hữu trí tuệ về bảo hộ quyền tác giả A là chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm X không may bị tai nạn qua đời, vì tác phẩm được rất nhiều độc giả yêu thích nên B đã viết tiếp theo cốt truyện của anh A.
Những người thừa kế quyền tác giả của anh A không đồng ý vì cho rằng như thế là vi phạm quyền tác giả. Còn B cho rằng mình có quyền tác giả đối với phần viết mới này, phần này độc lập với phần của anh A và được độc giả cũng rất yêu thích. Tranh chấp xảy ra. Theo anh (chị) anh B có vi phạm quyền tác giả của anh Anh A không. Tranh chấp này được giải quyết thế nào, vì sao?
Bài làm:
Về luật điều chỉnh
Anh B là cá nhân Việt Nam, đáp ứng các điều kiện về năng lực theo Bộ luật dân sự. anh A cũng là cá nhân Việt Nam, là tác giả tác phẩm X và cũng thỏa mãn điều kiện về năng lực. Đối tượng tranh chấp là quyền tác giả đối với tác phẩm X. Do đó tranh chấp này thuộc điều chỉnh của Điều 1, 2 Luật Sở hữu trí tuệ.
Về đồng tác giả
Điều kiện để là đồng tác giả khi cả 2 cùng sáng tạo ra tác phẩm, đã cùng bỏ tác giả, tài chính, CSVC KT để tạo ra tác phẩm. Trong trường hợp này, có thể thấy không hề co sự cùng hợp tác giữa A và B, cả 2 không cùng trong 1 khoảng tác giả để tạo ra tác phẩm, giữa 2 bên cũng không hề có sự tương hỗ tài chính hoặc cơ sở vật chất tại cùng 1 khoảng tác giả để tạo ra tác phẩm. Do đó có thể thấy rằng A và B không là đồng tác giả (Điều 38 Luật Sở hữu trí tuệ)
Về tính độc lập của tác phẩm
Tác phẩm của A và B, có thể có sự liên quan về nội dung; nhưng bản chất, đây là vẫn là 2 tác phẩm hoàn toàn riêng biệt, nếu bỏ đi phần này thì phần kia vẫn có giá trị nghệ thuật và giữ được bản chất sử dụng của nó, giữa hai phần này không hề có sự phụ thuộc về nội dung và giá trị sử dụng. Ngoài ra, tác phẩm của B không phải là tác phẩm dịch hay phóng tác, cải biên… từ tác phẩm của A nên cũng không phải là tác phẩm phải sinh. B là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm một cách độc lập và là tác giả của tác phẩm phần sau. Do đó có thể nói rằng đây là 2 tác phẩm độc lập và B có quyền tác giả đối với tấc
phẩm của minh.
Cơ sở pháp lý: K1 Đ13 Luật Sở hữu trí tuệ.
Về việc B có vi phạm quyền tác giả không?
Thứ nhất, cần xác định xem B có sử dụng tác phẩm của A hay không? Việc sử dụng là việc khai thác 1 trong các quyền TS của tác phẩm như sao chếp, biểu diễn, truyền đạt…
Tuy nhiên, như đã phân tích, tác phẩm B được tạo ra độc lập, không hề có sự làm tác phẩm phái sinh hay sao chép gì ở đây cả, do đó B không hề sử dụng tác phẩm của A.
Cơ sở pháp lý: K1, K3 Đ20 Luật Sở hữu trí tuệ. Thứ hai, cần xác định hành vi của B có xâm phạm quyền tác giả của A không? các hành vi xâm phạm quyền tác giả được quy định trong luật như chiếm đoạt, sử dụng, công bố, làm tác phẩm phái sinh… tuy nhiên, việc làm tác phẩm của B hoàn toàn độc lập và không thuộc bất kỳ điểm nào trong các hành vi xâm phạm quyền tác giả.
Cơ sở pháp lý: điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ.
Do đó có thể kết luận rằng, hành vi của B là không hề vi phạm quyền tác giả của A. Tính mới là sự khác biệt đáng kể so với nhưng tác phẩm đã có sẵn. Việc tính mới trong tác phẩm không được dùng là dk để tác phẩm được thừa nhận bảo hộ bởi các lý do sau:
Thứ nhất, về tính ứng dụng. Đối với các sự sáng tạo khác, chẳng hạn sáng chế. Tính ứng dụng của sáng chế là rất lớn khi giải quyết được 1 vấn đề kỹ thuật. Trong khi đó, nhìn vào các loại hình tác phẩm được bảo vệ, có thể thấy chúng mang tính nghệ thuật hoặc thiên về lý thuyết nhiều hơn. Tính ứng dụng càng cao, càng đỏi hỏi sự sáng tạo, mới mẻ của nó, trong khi đó, tác phẩm không thiên về tính ứng dụng mà mang tính giải trí nhiều hơn, do đó tính mới của tác phẩm không thực sự quan trọng.
Thứ hai, mục đích sử dụng. tác phẩm như đã nói mang tính giải trí nhiều hơn, do đó mỗi cá nhân tạo ra tác phẩm chắc chắn sẽ rất đa dạng, việc trung lặp hoàn toàn ý tưởng là rất khó xảy ra, nên có thể thấy rằng tính mới luôn xuất hiện trọng tác phẩm. Ngoài ra, tác phẩm còn có tính kế thừa, do đó việc tác phẩm có trung lại 1 vài ý tường cũng không là vấn đề, càng nhiều tác phẩm thì món ăn tinh thần càng phong phú; càng tốt. Do đó không có lý do gì lại dùng tính mới để hạn chế sự bảo hộ tác phẩm cả.
Tình huống 2: Bài tập môn Luật Sở hữu trí tuệ về nhãn hiệu
Đài truyền hình Việt Nam (VTV) là chủ sở hữu tại Việt Nam của những nhãn hiệu dịch vụ “ Đường lên đỉnh Olympia” ( nhóm 41- dịch vụ giải trí). Bộ giáo dục và Đào tạo tổ chức cuộc thi Olympic Mac-LeNin. VTV yêu cầu Bộ giáo dục và Đào tạo phải đổi tên cuộc thi để tránh nhầm lẫn với nhãn hiệu “Olympia” của mình. Bộ GD&ĐT cho rằng tên gọi hai cuộc thi là khác nhau, vả lại Olympic là tên gọi phổ biến nên không thể được bảo hộ dưới dạng NHHH. Anh (chị) đồng ý với ý kiến của ai?
Bài làm:
Trong tình huống trên tác giả đồng ý với ý kiến của Bộ GD- ĐT
Hai tên gọi hai cuộc thi “Đường lên đỉnh Olympia” và “Olympic Mac- Lenin” là khác nhau và không dễ gây nhầm lẫn.
Olympia là tên một thành phố của Hi Lạp ngày nay, Olympia trước đây là nơi diễn ra thế vận hội Olympic cổ đại. Tên gọi Olympic là tên phiên âm tiếng việt của Olympiad (có từ cách đây gần 3000 năm) bắt nguồn từ cuộc tranh tài thể thao giữa các quốc gia toàn thế giới và dần dần phổ biến và mở rộng sang các cuộc thi về các môn khoa học ngoài thể thao mang tầm quốc tế (có sự tham gia của rất nhiều quốc gia trên thế giới) như: IMO (Olympic toán học quốc tế), IPhO (Olympic vật lý quốc tế), IChO (Olympic hóa học quốc tế),….
Việc sử dụng từ Olympic trong tên cuộc thi của Bộ GD& ĐT nhằm thể hiện tinh thần của thi đấu và cũng nhằm để công bố là đây là 1 cuộc thi về kiến thức triết học Mac- Lenin. Còn chương trình truyền hình “Đường lên đỉnh Olympia” thể hiện sự vinh quang khi vượt qua bao khó khăn để chiến thắng của người chơi, mượn ý nghĩa của đỉnh Olympia trong thần thoai Hy lạp trước để chỉ nơi đạt đến vinh quang. => tính chất hai cuộc thi là khác nhau và tên gọi cũng khác biệt.
Olympic là tên gọi phổ biến
Tên gọi Olympic đã có từ cách đây rất lâu (gần 3000 năm), được biết đến rộng rãi nên biểu tượng cũng như tên gọi Olympic thuộc về tất cả mọi người và được sử dụng rộng rãi, thường xuyên. Hiện nay, mọi cuộc thi có tính mở rộng, người ta có thể sử dụng từ
Olympic kèm tên lĩnh vực thi làm tên gọi cuộc thi.
2.1. Theo tiết b khoản 2 Điều 74 Luật Sở hữu trí tuệ, tên Olympic do quá thông dụng nên được coi là nhãn hiệu không có khả năng phân biệt.
Điều 74. Khả năng phân biệt của nhãn hiệu
Nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu nhãn hiệu đó là dấu hiệu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
b) Dấu hiệu, biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi thông thường của hàng hóa, dịch vụ bằng bất kỳ ngôn ngữ nào đã được sử dụng rộng rãi, thường xuyên, nhiều người
biết đến;”
2.2. Theo khoản 2 điều 72 Luật Sở hữu trí tuệ, tên Olympic không được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu hàng hóa bởi không có khả năng phân biệt.
Điều 72. Điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ
Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
1 – Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.
2 – Có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác.
2.3 Mặt khác, theo khoản 2 điều 73 Luật Sở hữu trí tuệ, những dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu là “dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên viết tắt, tên đầy đủ của tổ chức quốc tế nếu không được tổ chức đó cho phép. Từ Olympic trùng với tên Ủy ban quốc tế về thể thao nên sẽ không được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu.
Điều 73. Dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu
Các dấu hiệu sau đây không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu:
Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu tượng, cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế, nếu không được cơ quan, tổ chức đó cho phép.
=> Tên gọi cuộc thi “Olympic Mac – Lê nin” sẽ không được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu hàng hóa mà bất kỳ cá nhân tổ chức nào cũng có thể sử dụng từ Olympic, hơn nữa tên gọi hai cuộc thi là khác nhau như trên đã giải thích nên việc VTV yêu cầu bộ GD&ĐT đổi tên cuộc thi để tránh nhầm lẫn với nhãn hiệu Olympia của mình là không hợp lý và không được pháp luật chấp nhận.
Tình huống 3: Bài tập môn Luật Sở hữu trí tuệ về phát minh và sáng chế
Xưa nay người ta vẫn dùng phương pháp trộn bê tông ướt giữa xi măng, sỏi và cát.
Độ đông cứng của bê tông được tăng cường bởi chất phụ gia X theo tỷ lệ k%. Một hôm do đãng trí anh Bình pha quá nhiều phụ gia X, đồng thời lại cho sỏi vào trước khi cho phụ gia và phát hiện ra rằng do sỏi tạo sẵn các kẽ hở trong hợp chất bê tông trước khi trộn, đồng thời tỷ lệ phụ gia thích hợp hơn, nên bê tông đông cứng nhanh hơn hẳn, rất thích hợp cho công trình hầm hay trụ cầu. Anh Bình xin đăng ký bảo hộ phát minh sáng chế, song mọi người can rằng việc tạo kẽ hở làm hỗn hợp bê tông mau đông là chuyện hiển nhiên, trong nghề xây dựng ai cũng biết, vì thế anh sẽ không đủ tiêu chuẩn để được bảo hộ. Họ có đúng không?
Bài làm:
Việc tạo kẽ hở làm hỗn hợp bê tông mau đông của anh Bình KHÔNG thuộc đối tượng không được bảo hộ dưới danh nghĩa sáng chế. Theo điều 59 Luật Sở hữu trí tuệ về đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế.
Điều 59. Đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế
Các đối tượng sau đây không được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế:
- Phát minh, lý thuyết khoa học, phương pháp toán học.
- Sơ đồ, kế hoạch, quy tắc và phương pháp để thực hiện các hoạt động trí óc, huấn luyện vật nuôi, thực hiện trò chơi, kinh doanh; chương trình máy tính.
- Cách thức thể hiện thông tin.
- Giải pháp chỉ mang đặc tính thẩm mỹ.
- Giống thực vật, giống động vật.
- Quy trình sản xuất thực vật, động vật chủ yếu mang bản chất sinh học mà không phải là quy trình vi sinh.
- Phương pháp phòng ngừa, chẩn đoán và chữa bệnh cho người và động vật.
- Giải pháp của anh Bình có khả năng áp dụng công nghiệp
- Theo điều 62 Luật Sở hữu trí tuệ về khả năng áp dụng công nghiệp của sáng chế.
Điều 62. Khả năng áp dụng công nghiệp của sáng chế
Sáng chế được coi là có khả năng áp dụng công nghiệp nếu có thể thực hiện được việc chế tạo, sản xuất hàng loạt sản phẩm hoặc áp dụng lặp đi lặp lại quy trình là nội dung của sáng chế và thu được kết quả ổn định.
Giải pháp tạo kẽ hở làm hỗn hợp bê tông mau đông của anh Bình không đáp ứng điều kiện có trình độ sáng tạo nên không đủ tiêu chuẩn được bảo hộ độc quyền sáng chế
3.1. Theo điều 61 Luật Sở hữu trí tuệ quy định thì sáng chế có trình độ sáng tạo phải không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng. Việc tạo kẽ hở làm hỗn hợp bê tông mau đông chuyện hiển nhiên, trong nghề xây dựng ai cũng biết cho nên giải pháp đó của anh Bình được cho là không đảm bảo trình độ sáng tạo.
Điều 61. Trình độ sáng tạo của sáng chế
Sáng chế được coi là có trình độ sáng tạo nếu căn cứ vào các giải pháp kỹ thuật đã được bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc dưới bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên, sáng chế đó là một bước tiến sáng tạo, không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng.
3.2. Những người đóng góp ý kiến cho anh Bình có lý khi nói rằng anh sẽ không đủ tiêu chuẩn để được bảo hộ sáng chế bởi giải pháp của anh không đảm bảo có trình độ sáng tạo (theo khoản 1 điều 58 Luật Sở hữu trí tuệ).
Điều 58. Điều kiện chung đối với sáng chế được bảo hộ
Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền sáng chế nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Có tính mới;
b) Có trình độ sáng tạo;
c) Có khả năng áp dụng công nghiệp.
Xét tính mới của giải pháp anh Bình đưa ra. Trường hợp giải pháp kỹ thuật này chưa được bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký bảo hộ hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp đăng ký sáng
chế được hưởng quyền ưu tiên. Giải pháp của anh Bình được coi là có tính mới (khoản 1 điều 60 Luật Sở hữu trí tuệ). Mặc dù anh không được cấp bằng độc quyền sáng chế nhưng được cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích. (khoản 2 điều 58 Luật Sở hữu trí tuệ).
Điều 58. Điều kiện chung đối với sáng chế được bảo hộ
Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích nếu không phải là hiểu biết thông thường và đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Có tính mới;
b) Có khả năng áp dụng công nghiệp.
Điều 60. Tính mới của sáng chế
Sáng chế được coi là có tính mới nếu chưa bị bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên.
4.1. Trường hợp có một số người có hạn đã biết và có nghĩa vụ giữ bí mật về giải pháp này. Theo khoản 1, 2 điều 60 Luật Sở hữu trí tuệ thì việc tạo kẽ hở làm hỗn hợp bê tông mau đông vẫn được coi là có tính mới. Tương tự như ý trên, anh Bình sẽ được cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích.
Điều 60. Tính mới của sáng chế
Sáng chế được coi là có tính mới nếu chưa bị bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên.
Sáng chế được coi là chưa bị bộc lộ công khai nếu chỉ có một số người có hạn được biết và có nghĩa vụ giữ bí mật về sáng chế đó.
4.2. Trường hợp giải pháp anh Bình có được đã được công bố trước ngày nộp đơn đăng ký bảo hộ.
Nếu đơn đăng ký được nộp trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày công bố và việc công bố thuộc các hình thức nêu trong tiết a, b, c khoản 3 điều 60 Luật Sở hữu trí tuệ thì giải pháp anh Bình đưa ra vẫn đảm bảo có tính mới và tương tự vẫn được cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích.
Điều 60. Tính mới của sáng chế
Sáng chế không bị coi là mất tính mới nếu được công bố trong các trường hợp sau đây với điều kiện đơn đăng ký sáng chế được nộp trong thời hạn sáu tháng kể từ ngày công bố:
a) Sáng chế bị người khác công bố nhưng không được phép của người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật này;
b) Sáng chế được người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật này công bố dưới dạng báo cáo khoa học;
c) Sáng chế được người có quyền đăng ký quy định tại Điều 86 của Luật này trưng bày tại cuộc triển lãm quốc gia của Việt Nam hoặc tại cuộc triển lãm quốc tế chính thức hoặc được thừa nhận là chính thức. Ngoài các trường hợp nêu trên, giải pháp tạo kẽ hở làm bê tông mau khổ của anh
Bình sẽ không đảm bảo tính mới và không được bảo hộ độc quyền cả cho sáng chế lẫn giải pháp hữu ích.
Tham khảo trọn bộ bài giảng môn học Luật sở hữu trí tuệ: https://study.phapche.edu.vn/khoa-hoc-tim-hieu-mon-luat-so-huu-tri-tue?ref=lnpc
Mời bạn xem thêm: