Sơ đồ bài viết
Bạn đang tìm kiếm bài tập tình huống môn Luật Hình sự về tội giết người để ôn tập và nâng cao kỹ năng phân tích pháp lý? Bài viết này sẽ cung cấp các tình huống thực tế, kèm theo hướng dẫn giải chi tiết dựa trên quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành. Đây là tài liệu hữu ích dành cho sinh viên luật, giảng viên và những ai quan tâm đến lĩnh vực pháp luật hình sự. Hãy cùng tìm hiểu để củng cố kiến thức và rèn luyện tư duy pháp lý hiệu quả!
Tham khảo trọn bộ bài giảng môn học Luật Hình sự: https://study.phapche.edu.vn/khoa-hoc-tim-hieu-mon-luat-hinh-su-1?ref=lnpc
Bài tập tình huống môn luật hình sự về tội giết người
Bài tập 1:
A là quốc tịch Canada. A có hành vi phạm tội giết người trên lãnh thổ Việt Nam và bị bắt tại Anh.
Câu hỏi
- Hành vi phạm tội của A có bị xử theo Bộ luật Hình Sự Việt Nam không?
- Giả định A là người thuộc đối tượng được đặc miễn ngoại giao thì hành vi của A có bị coi là tội phạm không?
- Hãy cho biết quan điểm cá nhân về quy định tại Điều 5 Bộ luật hình sự Việt Nam.
- Về nguyên tắc thì A bị xử lý theo Bộ luật hình sự Việt Nam theo khoản 1 điều 5 bộ luật hình sự Việt Nam: Bộ luật hình sự được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Lời giải
Tuy nhiên do A là người Canada nên việc xử lý A phải căn cứ vào khoản 2 điều 5 của bộ luật hình sự. Nếu A là đối tượng thuộc khoản 2, điều 5 bộ luật hình sự thì vấn đề trách nhiệm hình sự của A được giải quyết bằng con đường ngoại giao: Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam ký kết hoặc tham gia hoặc theo tập quán quốc tế, thì trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao.
Như vậy câu Lời giải chính xác là có thể.
Dù A là người thuộc đối tượng được đặc miễn ngoại giao thì hành vi của A vẫn bị coi là tội phạm.
Hành vi của A là tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam vì nó thoả mãn những đặc điểm của tội phạm:
+ Tính nguy nguy hiểm cho xã hội
+ Tính có lỗi
+ Tính trái pháp luật hình sự
+ Tính chịu hình phạt
Hành vi của A là tội phạm tuy nhiên do A ( chủ thể của tội phạm) thuộc đối tượng được đặc miễn ngoại giao nên vấn đề trách nhiệm hình sự của A được giải quyết bằng con đường ngoại giao theo quy định tại khoan 2, điều 5 Bộ luật hình sự Việt Nam: Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao.
Bài tập 2
A bị lôi kéo tham gia vào tổ chức phản động trong nước. Khi thấy tính hình xã hội có nhiều biến động, để gây thêm thanh thế của tổ chức, thu hút sự chú ý của dư luận trong và ngoài nước, A nhận nhiệm vụ ném lựu đạn vào nhà chủ tịch huyện K (huyện giáp biên giới) nhằm giết chết ông K và làm suy yếu chính quyền. A ném lựu đạn vào nhà nhưng lựu đạn không nổ. Sau đó A bị bắt.
Hỏi:
1. Hay xác định các khẳng định sau là đúng hay sai và giải thích tại sao?
a. A phạm tội giết người?
b. Tội phạm do A thực hiện ở giai đoạn tội phạm hoàn thành?
2. Phân tích sự khác nhau giữa tội khủng bố và tội giết người?
Lời giải
1. Hay xác định các khẳng định sau là đúng hay sai và giải thích tại sao?
a. A phạm tội giết người? Sai
Nếu xét các dấu hiệu cảu mặt khách quan thì hành vi của A cũng tương tự tội giết người. Đối với tội giết người, mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc, dấu hiệu định tội nhưng nếu giết người có mục đích làm suy yếu chính quyền nhân dân thì đã thỏa mãn CTTP tội khủng bố. Hành vi của A không đơn thuần chỉ là hành vi giết một con người cụ thể mà hành vi của A để gây thêm thanh thế cho tổ chức, thu hút sự chú ý của dư luận trong và ngoài nước, từ đó nhằm làm suy yếu chính quyền. Mặt khác, K là một chủ tịch huyện, với vai trò cán bộ nhà nước, lại ở giáp biên giới, nơi thường bị các lực lượng thù địch lợi dụng chống phá. Như vậy, xét về tính chất nguy hiểm cho xã hội thì hành vi của A là đặc biệt nguy hiểm, xâm phạm đến an ninh quốc gia. Chính vì thế, A không phạm tội giết người mà là phạm tội khủng bố theo điều 84 BLHS.
b. Tội phạm do A thực hiện ở giai đoạn tội phạm hoàn thành? Sai
Về căn cứ pháp lý, CTTP tội khủng bố là CTTP vật chất, là CTTP có các dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi, hậu quả và mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả.
Mặt khác, tội khủng bố có 2 loại hậu quả:
Hậu quả trực tiếp: chết người, thương tích, tự do thân thể bị tước đoạt hoặc bị hạn chế. Đây chính là dấu hiệu bắt buộc của tội khủng bố, và nó hoàn thành khi hậu quả trực tiếp xảy ra. Hậu quả này là phương tiện để người phạm tội đạt được kết quả suy yếu chính quyền nhân dân.
Hậu quả gián tiếp: thông qua hậu quả trực tiếp, người phạm tội có thể làm suy yếu chính quyền. Tuy nhiên hậu quả này không phải là dáu hiệu bắt buộc của CTTP tội khủng bố.
Xét về lý luận, CTTP vật chất hoàn thành khi hậu quả đã xảy ra, xét với tội khủng bố tức là cả 2 hậu quả đều xảy ra. Tuy nhiên, rất khó để xác định, thậm chí là không thể xác định được chính quyền đã suy yếu hay chưa, nếu suy yếu thì nó ở mức độ nào, và nhà nước cũng không thể công bố kết quả ra được vì nguyên nhân chính trị… Như vậy tội khủng bố hoàn thành khi hậu quả trực tiếp xảy ra.
Xét vào vụ án trên, A đã có hành vi ném lựu đạn vào nhà với ý muốn giết chết K, nên hành vi của A không thể là hành vi quy định tại khoản 3 điều 84: “đe dọa xâm phạm tính mạng” mà là hành vi quy đinh tại khoản 1 nhưng ở giai đoạn phạm tội chưa đạt vì hậu quả chết người chưa xảy ra.
2. Phân tích sự khác nhau giữa tội khủng bố và tội giết người?
Khái niệm:
– Tội khủng bố: là hành vi xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể của cán bộ, công chức hoặc công dân nhằm chống chính quyền nhân dân.
Được quy định tại khoản 1, 2, 3, 4 điều 84 BLHS.
– Tội giết người: là hành vi cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng người khác.
Được quy đinh tại khoản 1, 2, 3 điều 93 BLHS.
Phân tích sự khác nhau:
* Khách thể của tội phạm
Tội khủng bố xâm phạm: sự vững mạnh của chính quyền nhân dân, xâm phạm an ninh đối ngoại – đe dọa đến quyền cơ bản nhất của quốc gia, thông qua việc xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể của con người.
Đối tượng tác động của tội khủng bố thường là những cán bộ cốt cán, những thành viên tích cực trong các hoạt động xã hội, những công dân có đóng góp nhiều trong hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội và cũng có thể là người nước ngoài nhằm gây khó khăn cho quan hệ đối ngoại của Việt Nam.
Tội giết người xâm phạm đến quyền sống – quyền cơ bản nhất, quan trọng nhất của con người.
Đối tượng tác động của tội giết người có thể là bất kì ai có quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng, đó là những con người cụ thể, đang tồn tại trong thế giới khách quan.
* Mặt khách quan của tội phạm
– Hành vi:
Hành vi khách quan của tội giết người là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác – xâm phạm đến tính mạng của một hay những con người cụ thể.
Đối với tội khủng bố, ngoài hành vi xâm phạm đến tính mạng còn có hành vi xâm phạm đến sức khỏe, tự do thân thể của con người. Đó có thể là giết người (khoản 1), cố ý gây thương tích, bắt giữ (khoản 2), dọa giết hoặc có hành vi khác uy hiếp tinh thần như dọa đốt nhà, dọa tố cáo… (khoản 3).
– Hậu quả:
Tội giết người chỉ gây ra một loại hậu quả, đó là hậu quả chết người (hậu quả trực tiếp) và hậu quả đó là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP tội giết người, nói cách khác, tội giết người hoàn thành khi hậu quả chết người xảy ra.
Tội khủng bố có thể gây ra 2 loại hậu quả:
Hậu quả trực tiếp: có thể là chết người, thương tích, tự do thân thể bị tước đoạt hoặc bị hạn chế. Đây chính là dấu hiệu bắt buộc của tội khủng bố, và nó hoàn thành khi hậu quả trực tiếp xảy ra. Hậu quả này là phương tiên để người phạm tội đạt được kết quả suy yếu chính quyền nhân dân.
Hậu quả gián tiếp: thông qua việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể của cán bộ, công chức hay công dân, người phạm tội có thể làm suy yếu chính quyền. Tuy nhiên hậu quả này không phải là dáu hiệu bắt buộc của CTTP tội khủng bố, nguyên nhân ngoài tính chất đặc biệt nguy hiểm của tội khủng bố còn có thể là rất khó để xác định chính quyền đã suy yếu hay chưa, ở mức độ nào, và nhà nước cũng không thể công bố kết quả ra được..
* Mặt chủ quan của tội phạm
– Lỗi:
Cùng là lỗi cố ý nhưng tội khủng bố được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Nguời phạm tội nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, thấy được hậu quả (thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của người khác) nhưng mong muốn hậu quả đó xảy ra (nhằm làm suy yếu chính quyền nhân dân).
Ngoài lỗi cố ý trực tiếp, tội giết người còn được thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp, tuy rằng nhận thức được và thấy trước hậu quả có thể xảy ra nhưng người phạm tội lại để mặc cho hậu quả xảy ra, có ý thức chấp nhận hậu quả xảy ra.
– Mục đích:
Mục đích, không phải là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP tội giết người, nó không có ý nghĩa trong việc định tội mà có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt hoặc định hình phạt.
Chống chính quyền nhân dân là dấu hiệu bắt buộc trong các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Cụ thể đối với tội khủng bố mục đích là làm suy yếu chính quyền. Sỡ dĩ quy định như thế là vì các tội xâm phạm an ninh quốc gia có tích chất nguy hiểm đặc biệt, ý chí ngông cuồng cao độ, nhằm chống lại nhà nước, muốn thay đổi chế độ xã hội, chính vì thế phải có chính sách hình sự đặc biệt hơn các tội phạm thông thường. Hơn thế nữa, các tội xâm phạm an ninh quốc gia nói chung và tội khủng bố nói riêng, các tình tiết của vụ án rất giống các loại tội phạm khác, chính vì thế mục đích của người phạm tội mới thể hiện rõ bản chất phạm tội của họ.
* Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.
Thấy rằng “người có năng lực TNHS” và “đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể”, cả 2 tội đều giống nhau, áp dụng điều 12 BLHS, ta dễ dàng nhận thấy rằng:
Chủ thể của tội khủng bố điều 84 BLHS, có thể là người từ 14 tuổi đối với khoản 1, khoản 2, còn đối với khoản 3 thì là 16 tuổi trở lên. Đối với tội giết người, chủ thể luôn là người từ 14 tuổi trở lên, cả khoản 1 lẫn khoản 2.
Tóm gọn lại như sau:
Tiêu chí | Tội khủng bố (Đ. 84 BLHS) | Tội giết người (Đ. 93 BLHS) |
Khách thể của tội phạm | – sự vững mạnh của chính quyền nhân dân– thường là những người có tầm quan trọng | – quyền sống của con người.– conngười, bất kì ai, đang sống |
Mặt khách quan của tội phạm | – hành vi: xâm hại ngoài tính mạng còn : sức khỏe, tự do thân thể…– hậu quả:+ trực tiếp: chết người, thương tích,…+ gián tiếp: suy yếu chính quyền | – hành vi: xâm hại tính mạng.– hậu quả: chết người. |
Mặt chủ quan của tội phạm | – lỗi: + lỗi cố ý trực tiếp– mục đích: làm suy yếu chính quyền nhân dân ( dấu hiệu bắt buộc ) | – lỗi cố ý bao gồm:+ trực tiếp+ gián tiếp– mục đích: không bắt buộc. |
Chủ thể của tội phạm | – tuổi:+ 14 trở lên đối với K1, K2+ 16 tuổi trở lên đối với K3 | – tuổi: từ 14 tuổi trở lên. |
Bài tập 3
Huynh (33 tuổi) vay của chị dâu là Nga 1,9 tỷ đồng để lấy vốn làm ăn. Do làm ăn thua lỗ, hạn cho vay đã hết và chị Nga ráo riết đòi nợ mà Huynh không có tiền trả, Huynh đã dùng dao giết chết chị Nga để không phải trả nợ. Tội giết người mà Huynh đã thực hiện được quy định tại khoản 1 Điều 93 BLHS.
Câu hỏi:
1.Tội phạm mà Huynh đã thực hiện thuộc loại tội gì theo phân loại tội phạm tại khoản 3 Điều 8 BLHS. (2 điểm)
2. Khách thể của tội phạm và đối tượng tác động của tội phạm trong trường hợp này là gì? Hãy giải thích. (2 điểm)
3. Phát biểu sau đây về vụ án này là đúng hay sai? Tại sao? – Nếu toà án tuyên phạt 15 năm tù đối với Huynh thì có nghĩa là tội phạm mà Huynh thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng. (1 điểm)
4. Giả sử Huynh là người có quốc tịch Trung Quốc và vụ án trên xảy ra tại Hải Phòng thì Huynh có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam không? Tại sao? (2 điểm)
BÀI LÀM
1.Tội phạm mà Huynh đã thực hiện thuộc loại tội gì theo phân loại tội phạm tại khoản 3 Điều 8 BLHS
Huynh phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, vìcó mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình.
Điều 8 BLHS có nêu:
“2. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
3. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”
Theo cách phân loại tội phạm của BLHS, tội phạm tuy có chung các dấu hiệu (tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật và tính chịu hình phạt) nhưng những hành vi phạm tội cụ thể có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Chính vì sự khác nhau như vậy mà vấn đề phân hóa và cụ thể hóa tôi phạm đc đặt ra như là nguyên tắc của luật Hình sự Việt Nam. Theo khoản 2 Điều 8 BLHS, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi đc quy định trong bộ luật, tội phạm đc chia thành 4 loại: tội phạm ít nghiệm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đăc biệt nghiêm trọng. Và mỗi loại tội phạm đc gắn với 1 khung hình phạt khác nhau đc quy định tại khoản 3 Điều 8 BLHS.
Huynh phạm tội giết người vì động cơ đê hèn, điểm q, khoản 1, Điều 93 BLHS.
Giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật.Chủ thể của tội phạm là Huynh, 33 tuổi, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và mặc nhiên được thừa nhận có năng lực trách nhiệm hình sự. Khách thể của tội phạm là quyền sống của chị Nga, hành vi phạm tội là dùng dao gây án dẫn đến hậu quả là chị Nga chết.
Ở hành vi phạm tội của Huynh, bị cáo đã giết chị dâu là Nga để không phải trả nợ khoản tiền 1,9 tỉ đồng đã quá hạn vay. Nhân dân ta có truyền thống đoàn kết thương yêu đùm bọc, giúp đỡ nhau. Trong quan hệ vay mượn cũng là biểu hiện của tinh thần đó. Khi gặp khó khăn, túng thiếu Huynh đã được Nga cưu mang giúp đỡ, cho vay tiền. Lẽ ra Huynh phải biết ơn, ngược lại kẻ được cưu mang giúp đỡ lại giết người cưu mang, giúp đỡ mình nhằm trốn nợ.
Từ những phân tích trên cùng với việc tổng kết kinh nghiệm xét xử nhiều năm ở nước ta thì trường hợp giết chủ nợ để trốn nợ của Huynh được kết luận là hành vi giết người vì động cơ đê hèn được quy định tại điểm q khoản 1 Điều 93 BLHS. Căn cứ vào khoản 1 Điều 93 BLHS “Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình…” thì tội phạm mà Huynh thực hiện có mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình, căn cứ tiếp vào khoản 3 Điều 8 BLHS “tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gậy nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”thì tội phạm mà Huynh thực hiện là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Giả sử hành vi Huynh giết chị Nga chỉ do mâu thuẫn và không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 93 thì căn cứ theo khoản 2 Điều này, Huynh chỉ phải chịu hình phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, tức Huynh phạm tội rất nghiêm trọng, với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội giảm nhẹ hơn so với tình huống của đề bài.
2. Khách thể của tội phạm và đối tượng tác động của tội phạm trong trường hợp này là gì? Hãy giải thích
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Theo pháp luật hình sự Viêt Nam, những quan hệ xã hội được coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội được quy định tại Điều 8 của BLHS. Hành vi bị coi là tội phạm, theo luật Hình sự Việt Nam, là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho một trong những quan hệ xã hội đã được xác định đó. Nhưng như vậy không có nghĩa hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội này trong mọi trường hợp đều bị coi là tội phạm mà chỉ trong những trường hợp nhất định – những trường hợp đã được cụ thể hóa qua những quy phạm pháp luật hình sự ở phần các tội phạm của BLHS.
Hành vi Huỳnh giết chị Nga trong trường hợp này được quy định tại Điều 93 BLHS, thuộc các tội xâm phạm tính mạng của con người. Khách thể của nhóm tội này là một trong những khách thể quan trọng nhất được luật hình sự bảo vệ. Đó là quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng.Huynh đã trực tiếp xâm hại quyền sống của chị Nga bằng cách tước đoạt một cách trái pháp luật mạng sống của nạn nhân.
Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ, mà ta đã biết khách thể gồm có các bộ phận:
– Chủ thể của các quan hệ xã hội.
– Nội dung của các quan hệ xã hội: Là hoạt động của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ xã hội.
– Đối tượng của các quan hệ xã hội: Là các sự vật khác nhau của thế giới bên ngoài cũng như các lợi ích mà qua đó các quan hệ xã hội phát sinh và tồn tại.
Trong tình huống đề bài nêu chủ thể của quan hệ nhân thân là chị Nga đã bị hành vi giết người của Huynh tước đoạt mạng sống, như vậy chị Nga chính là đối tượng tác động của tội phạm.
Hơn thế trong số những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ có những quan hệ chỉ có thể gây thiệt hại khi có sự biến đổi tình trạng bình thường của con người. Quan hệ nhân thân là quan hệ xã hội thuộc loại này. Các tội phạm quy đinh trong Chương XII BLHS đều có đối tượng tác động là con người. Cụ thể ở trong trường hợp này là tại Điều 93 BLHS.
3. Phát biểu sau đây về vụ án này là đúng hay sai? Tại sao? – Nếu toà án tuyên phạt 15 năm tù đối với Huynh thì có nghĩa là tội phạm mà Huynh thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng. (1 điểm)
Phát biểu “Nếu tòa án tuyên phạt 15 năm tù đối với Huynh thì có nghĩa là tội phạm mà Huynh thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng” là sai.
Điều 8 BLHS nêu rõ việc phân chia tội phạm thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi được quy định trong Bộ luật này. Việc nhận định tội phạm nào có tính chất và mức độ nguy hiểm hơn cho xã hội dựa vào mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội đó.
Căn cứ vào Điều 44 BLHS thì khi quyết định hình phạt, Toà án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Như vậy tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm chỉ là một trong các tiêu chí để quyết định hình phạt, vì vậy hình phạt đối với hành vi phạm tội không phải là căn cứ để xác định tội phạm thuộc loại gì.
Việc quyết định hình phạt đối với Huynh phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như nhân thân của Huynh, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Dù hành vi của Huynh là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, có mức hình phạt cao nhất là tử hình, nhưng có thể Tòa án chỉ quyết định phạt Huynh mười lăm năm tù, nằm trong mức “từ mười hai đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình” theo khoản 1 Điều 93. Đây là mức hình phạt cao nhất mà tội phạm rất nghiêm trọng phải nhận.
Giả thiết trường hợp của Huynh có một số tình tiết giảm nhẹ:
1, Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại và khắc phục hậu quả (điểm b, khoản 1, Điều 46).
2,Người phạm tội tự thú (điểm o, khoản 1, Điều 46)
3, Người phạm tội thành khẩn khai báo,ăn năn hối cải (điểm p, khoản 1, Điều 46)
Khi đó, áp dụng Điều 47 BLHS về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật thì hình phạt mà Huynh phải nhận có thể nhẹ hơn mức thấp nhất của khung hình phạt được quy định là dưới mười hai năm.
4. Giả sử Huynh là người có quốc tịch Trung Quốc và vụ án trên xảy ra tại Hải Phòng thì Huynh có phải chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam hay không? Tại sao?
Khoản 2 Điều 5 BLHS nói về hiệu lực của BLHS đối với những hành vi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
“2. Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao.”
Căn cứ vào khoản 2 Điều 5 BLHS thì sẽ có 2 trường hợp xảy ra với hành động phạm tội của Huynh:
a, Trường hợp 1: Nếu Huynh không thuộc các đối tượng được quy định tại khoản 2 Điều 5
Huynh là người mang quốc tịch Trung Quốc, phạm tội giết người ở Hải Phòng – thuộc lãnh thổ Việt Nam; mặt khác, Huynh không thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kí kết hoặc tham gia hoặc theo điều ước quốc tế thì Huynh bị xử lí về hành vi giết người theo BLHS Việt Nam. Như vậy Huynh vẫn sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự bình thường như theo khoản 1 Điều 5 BLHS: “Bộ luật Hình sự được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Cụ thể theo như đã nêu ở phần 1 thì Huynh phạm tội đặc biệt nghiêm trọng và có thể phải chịu mức án cao nhất là tử hình với tội danh giết người vì động cơ đê hèn được quy định tại điểm q, khoản 1 Điều 93 BLHS.
b, Trường hợp 2: Huynh thuộc các đối tượng được quy định tại khoản 2 Điều 5
Nếu Huynh thuộc đối tượng “được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kí kết hoặc tham gia hoặc theo tập quán quốc tế”, giả dụ Huynh là viên chức ngoại giao hoặc thành viên gia đình của viên chức ngoại giao… khi đó Huynh sẽ được miễn trừ xét xử hình sự và không phải chịu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam.
Tuy nhiên không phải cứ thuộc đối tượng tại khoản 2 điều 5 BLDS là Huynh sẽ không phải chịu TNHS, nếu nước cử từ bỏ quyền miễn trừ đối với Huynh một cách rõ ràng, thì khi đó Huynh sẽ phải chịu TNHS một cách bình thường.
Mời bạn xem thêm: